SKKN Giúp học sinh hình thành và vận dụng linh hoạt kiến thức lí luận khi làm dạng đề lí Luận văn học trong đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn, nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn trung học phổ thông
Bồi dưỡng học sinh giỏi là công việc hàng năm của mỗi giáo viên. Được giao nhiệm vụ phụ trách đội tuyển vừa là trách nhiệm, niềm vui vừa là nỗi lo lắng trăn trở của giáo viên. Đây là cơ hội để mỗi thầy cô tự rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn. Qua mỗi lần bồi dưỡng học sinh giỏi, trình độ chuyên môn của giáo viên càng được củng cố và vững vàng hơn trong nghề nghiệp của mình. Nỗi lo lắng, trăn trở của mỗi thầy cô phụ trách đội tuyển là làm sao để nâng cao được chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi, để kết quả thi đạt được như mong muốn.
Nghề giáo viên là nghề luôn phải buồn – vui vì nghề nghiệp. Niềm vui, nỗi buồn của người giáo viên gắn liền với niềm vui nỗi buồn của học trò. Mỗi lúc học trò thành công, thầy cô vui; trò thất bại, thầy cô buồn. Tôi cảm nhận rất rõ niềm vui, nỗi buồn trong lòng mình mỗi lúc như vậy. Mỗi năm ôn luyện, bồi dưỡng học sinh giỏi cô trò luôn mong mỏi và đề ra mục tiêu cần đạt được. Nhưng kết quả đôi lúc vẫn không được như mong muốn. Số lượng học sinh đạt giải tuy năm nào cũng chiếm 80% đến 100% số học sinh dự thi nhưng chất lượng giải chưa cao. Phần lớn chỉ dừng lại ở giải khuyến khích hoặc giải ba. Đó là điều mà tôi cũng như nhiều đồng nghiệp trăn trở: Phải chăng do năng lực học sinh hạn chế? Hay do phương pháp bồi dưỡng chưa đúng cách? Làm sao để nâng cao chất lượng học sinh giỏi bộ môn Ngữ văn?
MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG 1. Mở đầu 1 1.1. Lí do chọn đề tài 1 1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài 1 1.3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài 2 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm 2 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 3 2.1. Cơ sở lí luận 3 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 3 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 4 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 19 3. Kết luận và kiến nghị 20 3.1. Kết luận 20 3.2. Kiến nghị 20 1. MỞ ĐẦU 1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Bồi dưỡng học sinh giỏi là công việc hàng năm của mỗi giáo viên. Được giao nhiệm vụ phụ trách đội tuyển vừa là trách nhiệm, niềm vui vừa là nỗi lo lắng trăn trở của giáo viên. Đây là cơ hội để mỗi thầy cô tự rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn. Qua mỗi lần bồi dưỡng học sinh giỏi, trình độ chuyên môn của giáo viên càng được củng cố và vững vàng hơn trong nghề nghiệp của mình. Nỗi lo lắng, trăn trở của mỗi thầy cô phụ trách đội tuyển là làm sao để nâng cao được chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi, để kết quả thi đạt được như mong muốn. Nghề giáo viên là nghề luôn phải buồn – vui vì nghề nghiệp. Niềm vui, nỗi buồn của người giáo viên gắn liền với niềm vui nỗi buồn của học trò. Mỗi lúc học trò thành công, thầy cô vui; trò thất bại, thầy cô buồn. Tôi cảm nhận rất rõ niềm vui, nỗi buồn trong lòng mình mỗi lúc như vậy. Mỗi năm ôn luyện, bồi dưỡng học sinh giỏi cô trò luôn mong mỏi và đề ra mục tiêu cần đạt được. Nhưng kết quả đôi lúc vẫn không được như mong muốn. Số lượng học sinh đạt giải tuy năm nào cũng chiếm 80% đến 100% số học sinh dự thi nhưng chất lượng giải chưa cao. Phần lớn chỉ dừng lại ở giải khuyến khích hoặc giải ba. Đó là điều mà tôi cũng như nhiều đồng nghiệp trăn trở: Phải chăng do năng lực học sinh hạn chế? Hay do phương pháp bồi dưỡng chưa đúng cách? Làm sao để nâng cao chất lượng học sinh giỏi bộ môn Ngữ văn? Tham khảo ý kiến nhiều thầy cô giáo có uy tín, kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, tôi nhận thấy rằng: cần phải trang bị thêm cho học sinh hệ thống kiến thức lí luận văn học để bài viết của các em đủ độ “dày” hơn, lập luận sâu sắc hơn, có như vậy thì bài viết mới có sức thuyết phục. Trao đổi với học sinh về khó khăn của các em khi làm các đề thi học sinh giỏi, các em đều có chung ý kiến rằng còn lúng túng khi gặp các dạng đề lí luận văn học vì thiếu kiến thức lí luận văn học, các em thường đi vào chứng minh vấn đề nghị luận bằng cảm tính mà bỏ qua phần lí luận. Tôi cho rằng đó cũng là một trong những lí do cơ bản khiến kết quả thi học sinh giỏi chưa cao cho dù học sinh diễn đạt rất tốt, thẩm bình rất hay. Tôi nghĩ đến việc trang bị kiến thức lí luận văn học cho học sinh ngay từ khi mới lựa chọn đội tuyển với hi vọng sẽ cải thiện được chất lượng giải học sinh giỏi. Năm học 2016 -2017, tôi đã làm sáng kiến kinh nghiệm về việc trang bị kiến thức lí luận văn học để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi và bước đầu đã có tác động tích cực tới chất lượng giải đội tuyển do bản thân phụ trách. Bởi vậy, năm học này tôi tiếp tục bổ sung, hoàn thiện sáng kiến lần trước của mình để đạt hiệu quả cao hơn trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Tôi chọn đề tài: Giúp học sinh hình thành và vận dụng linh hoạt kiến thức lí luận khi làm dạng đề lí luận văn học trong đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn, nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn trung học phổ thông làm sáng kiến kinh nghiệm của mình trong năm học 2018 – 2019. 1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI. Tôi thực hiện đề tài này nhằm hướng tới một số mục đích cơ bản sau: Thứ nhất: Hình thành, củng cố kiến thức lí luận văn học - một mảng kiến thức cần có đối với học sinh giỏi môn Ngữ văn. Thứ hai: Vận dụng linh hoạt kiến thức lí luận khi làm dạng đề lí luận văn học. Giải quyết khó khăn của học sinh vì thiếu kiến thức lí luận khi làm các đề thi học sinh giỏi. Học sinh có nền tảng lí luận vững chắc sẽ không còn “ngại”, lúng túng khi gặp các dạng đề liên quan đến lí luận văn học – dạng đề thường thấy trong các đề thi học sinh giỏi. Thứ ba: Nâng cao chất lượng, hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi. 1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI. Xây dựng đề tài này, tôi tập trung vào nghiên cứu cách trang bị kiến thức lí luận, giúp học sinh vận dụng linh hoạt mảng kiến thức này nhằm nâng cao hiệu bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn, giải quyết khó khăn của học sinh khi gặp các dạng đề lí luận văn học. 1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI. * Phương pháp nghiên cứu, xây dựng cơ sở lí thuyết. Để xây dựng cơ sở lí thuyết cho đề tài, tôi đã trao đổi kinh nghiệm trang bị kiến thức lí luận văn học với nhiều thầy cô giáo có uy tín, bề dày trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, tìm cho mình cách thức tốt nhất để bồi dưỡng mảng kiến thức này cho học sinh. * Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế Tìm hiểu ý kiến của học sinh khi giải quyết các đề thi học sinh giỏi để tìm ra đâu là điểm khó khăn về lí luận văn học mà các em gặp phải để tìm cách bổ sung kiến thức cho các em. Đọc bài của học sinh để tìm ra những thiếu hụt về kiến thức lí luận văn học trong chính bài làm của các em. *Thu thập, xử lí thông tin. Tôi tiến hành thu thập ý kiến của học sinh khi giải quyết các đề thi liên quan đến kiến thức lí luận văn học; sau đó tìm kiếm các tài liệu lí luận văn học cần thiết đối với học sinh, soạn thành giáo án, biến các vấn đề lí luận khô khan, có tính hàn lâm thành các bài giảng có dẫn chứng cụ thể, sinh động để học sinh dễ tiếp thu. 1.5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. Tôi phát triển đề tài này từ sáng kiến của năm học 2016 – 2017: Kinh nghiệm trang bị kiến thức lí luận văn học nhằm giải quyết khó khăn của học sinh khi làm dạng đề lí luận văn học, nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn THPT. Sáng kiến đã được HĐKH Ngành GD tỉnh xếp loại C. Qua thực tế ôn luyện, bồi dưỡng học sinh giỏi, tôi thấy rằng vẫn phải bổ sung một vài giải pháp và nội dung kiến thức lí luận chưa thực sự đầy đủ trong đề tài sáng kiến kinh nghiệm trước. Những điểm mới của đề tài năm học này là: + Không chỉ trang bị kiến thức lí luận văn học mà còn đề ra giải pháp để học sinh vận dụng linh hoạt kiến thức lí luận văn học khi giải quyết các dạng đề lí luận có đề cập đến nhiều mảng kiến thức lí luận khác nhau. + Bổ sung một số vấn đề lí luận văn học còn thiếu hoặc chưa hoàn thiện trong sáng kiến kinh nghiệm năm học 2016 -2017. Gồm có: * Đặc trưng ngôn ngữ thơ – Thơ hay. * Tính nhạc và âm điệu trong thơ. * Đơn giản hóa một số vấn đề lí luận văn học để học sinh dễ tiếp nhận. * Làm sâu sắc hơn một số vấn đề lí luận: Chức năng của văn học; Tiếp nhận văn học; Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống; Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức; Đặc trưng của thơ: Tình cảm – yếu tố sinh mệnh của thơ 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN. Lí luận văn học là bộ môn nghiên cứu văn học ở bình diện lí thuyết khái quát, bao gồm trong đó sự khảo cứu bản chất của sáng tác văn học, chức năng xã hội – thẩm mĩ của nó; đồng thời xác định phương pháp luận và phương pháp phân tích văn học. Lí luận văn học tuy là kiến thức lí thuyết khái quát có phần khô khan nhưng nó lại là “kim chỉ nam” cho người học văn, đọc văn, cảm thụ văn chương. Thiếu kiến thức lí luận, người đọc, học văn không tránh khỏi việc cảm thụ tác phẩm văn học một cách hời hợt, mơ hồ, chung chung, thiếu chiều sâu, sự bàn bạc, chứng minh không có cơ sở lí luận vững chắc không thể thuyết phục người đọc. Đối với đối tượng là học sinh giỏi, việc hình thành và vận dụng linh hoạt kiến thức lí luận văn học giúp học sinh có những bình luận, đánh giá, nhận xét chuẩn xác hơn về một hiện tượng văn học nào đó; khắc phục tình trạng thiếu chiều sâu, giúp bài viết của các em trở nên sâu sắc hơn về ý tưởng, chặt chẽ hơn về lập luận, thuyết phục hơn khi đưa ra luận cứ. Vì vậy, việc hình thành và vận dụng kiến thức lí luận văn học là việc làm cần thiết trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn THPT, giúp học sinh không còn lúng túng khi gặp những dạng đề lí luận văn học. 2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ KHI CHƯA ÁP DỤNG SÁNG KIẾN. Như trên đã đề cập đến tầm quan trọng của kiến thức lí luận văn học đối với học văn, đọc văn, cảm thụ văn chương; càng quan trọng hơn với học sinh giỏi môn Văn. Nhưng thực tế chương trình sách giáo khoa hiện nay những bài học lí luận còn quá ít. Như vậy là chưa đủ đối với học sinh giỏi trong khi đề thi đề cập đến hầu hết các phạm trù lí luận văn học. Tài liệu tham khảo về lí luận văn học tuy nhiều nhưng đa số trình bày phức tạp, hàn lâm, khó tiếp nhận đối với tầm nhận thức của học sinh. Ở cấp THCS, các em chưa được tiếp xúc nhiều với dạng đề lí luận văn học, chưa có kiến thức về lí luận văn học. Những năm học trước, khi chưa áp dụng đề tài này, bồi dưỡng học sinh giỏi mới chỉ tập trung vào hệ thống kiến thức các tác phẩm, tác giả văn học, việc trang bị kiến thức lí luận còn sơ sài dẫn đến hiệu quả chưa cao, chất lượng giải còn hạn chế. Cụ thể: Năm học 2011-2012: 02 học sinh dự thi đạt 02 giải khuyến khích. Năm học 2012-2013: 02 học sinh dự thi đạt 02 giải ba. Năm học 2015-2016: 02 học sinh dự thi đạt 01 giải nhì, 01 giải khuyến khích. (Thống kê này là kết quả thi học sinh giỏi của học sinh bản thân tôi phụ trách, không phải kết quả môn Ngữ văn của cả trường) Từ kết quả trên cho thấy, mặc dù vẫn đảm bảo số lượng giải nhưng chất lượng giải nhìn chung chưa cao. Trao đổi với học sinh về khó khăn khi giải quyết các dạng đề thi học sinh giỏi các em học sinh của đội dự tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn đều có chúng ý kiến rằng rất lúng túng khi gặp các dạng đề thi học sinh giỏi vì đó đều là dạng đề lí luận văn học trong khi bản thân lại không đủ hiểu biết về mảng kiến thức này. 2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. 2.3.1. Tìm hiểu, trao đổi với học sinh về các vướng mắc khi làm các dạng đề lí luận văn học. Qua tìm hiểu, trao đổi với học sinh về những khó khăn khi làm các dạng đề lí luận văn học thì hầu hết các em đều cho rằng phần lí luận của mình còn chưa tốt; các em thường lúng túng khi bắt tay làm các dạng đề này vì thiếu kiến thức lí luận. Các em cho rằng những bài học lí luận văn học trong chương trình rất ít và sách giáo khoa trình bày tương đối sơ lược nên không đủ kiến thức để làm bài trong khi các đề thi lí luận văn học khá đa dạng và đề cập tới hầu như tất cả các vấn đề lí luận. Từ việc nắm bắt được khó khăn vướng mắc ấy, tôi lập kế hoạch tự nghiên cứu tài liệu và bổ sung kiến thức lí luận cho học sinh để kịp thời cung cấp những kiến thức còn thiếu hụt cho các em. 2.3.2. Giáo viên đọc bài của học sinh và tìm ra những thiếu hụt về kiến thức lí luận trong bài làm của các em để bổ sung, củng cố mảng kiến thức còn thiếu hụt. 2.3.3. Giáo viên nghiên cứu tài liệu, tự bồi dưỡng kiến thức lí luận văn học. Để có tư liệu phục vụ cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi, tôi đã phải tìm đọc nhiều tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau, sau đó ghi chép, tổng hợp, phân chia các phạm trù lí luận. Qua học tập, nghiên cứu, tôi thấy rằng, các vấn đề lí luận văn học rất rộng, tôi dành sự quan tâm tới các vấn đề lí luận học sinh còn thiếu hụt và các vấn đề lí luận thường xuất hiện trong các đề thi học sinh giỏi. Gồm có: - Chức năng (giá trị) của văn học. Tiếp nhận văn học (mối quan hệ nhà văn và độc giả) Mối quan hệ nội dung và hình thức. Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực đời sống. Đặc trưng của thơ: Tình cảm – yếu tố sinh mệnh của thơ ca. Phong cách văn học. Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật. Đặc trưng ngôn ngữ thơ: Thơ hay. Tính nhạc và âm điệu trong thơ. 2.3.4. Hình thành kiến thức lí luận văn học cho học sinh bằng những bài giảng đã được chuẩn bị chu đáo. Chuyển hóa các vấn đề lí luận văn học khô khan thành các bài giảng có dẫn chứng cụ thể về thực tế văn học. Các sách viết về lí luận văn học thường đề cập vấn đề ở lí thuyết khái quát nên có phần khô khan và hàn lâm, đôi khi khó hiểu, nếu giáo viên cung cấp kiến thức theo kiểu “bê nguyên si” từ sách vở đến học sinh thì không tránh khỏi việc học sinh chán học văn, ngại phần lí luận. Vì vậy, từ kiến thức sách vở, giáo viên phải chuyển hóa thành các bài giảng sinh động, kết hợp giữa lí thuyết và dẫn chứng cụ thể chứng minh cho lí thuyết. Thêm những lời bình, sự đánh giá giàu cảm xúc văn học để học sinh hứng thú với vấn đề lí luận mà giáo viên truyền đạt. Vấn đề 1: Chức năng (giá trị) của văn học. Nói đến chức năng của văn học là nói đến mục đích, ý nghĩa xã hội của văn học. Mĩ học và lí luận nghệ thuật macxít hiện nay cho rằng văn học có nhiều chức năng song tựu chung lại nó có các chức năng chủ yếu sau đây: Chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng thẩm mĩ. + Chức năng nhận thức (còn gọi là chức năng phản ánh của văn học). Văn học với chức năng nhận thức, phản ánh có thể đưa lại cho con người biết bao tri thức. Văn học có thể đưa ta về với quá khứ xa xưa, làm sống lại trong ta hình ảnh các phong tục tập quán, nếp sống, nếp nghĩ, niềm vui nỗi buồn, cái sướng cái khổ, lời ăn tiếng nói; tóm lại là đời sống tinh thần và đời sống vật chất của cha ông, của nhân loại bao đời nay. Người ta nói: Văn học là bộ Bách khoa toàn thư về cuộc sống là vì vậy. Nội dung chính của chức năng nhận thức văn học là nhận thức về con người. Ý nghĩa nhận thức về con người của văn học bộc lộ trong nhiều mặt khác nhau: trong việc khám phá ra tính cách xã hội điển hình của một giai đoạn, một xã hội, một tầng lớp nào đó (ví dụ: Chí Phèo, chị Dậu); trong những lí giải về số phận con người (như Truyện Kiều, Chiến tranh và hòa bình); và đặc biệt là sự thâm nhập vào thế giới bên trong của con người, vào các quá trình tư duy và tình cảm con người. Nghệ thuật không giải phẫu cơ thể nhưng nó là sự giải phẫu tinh thần con người, đi vào những ngõ ngách tâm hồn con người, cao hơn là giúp con người nhận thức bản thân mình: giá trị của mình, vị trí của mình, biết mình phải làm gì và có thể làm gì cho cuộc sống. Một đặc điểm đáng chú ý của nhận thức nghệ thuật là ở đây dường như “biết” chưa đủ mà còn “hiểu” mới là cái chính. Tác phẩm thường không nói cái gì hoàn toàn chưa biết, chưa nghe, chưa nói bao giờ. Nghệ thuật là sự ngạc nhiên vì khám phá ra điều mới mẻ trong cái quen thuộc hàng ngày, nhận ra cái chí lý sâu xa trong những gì bình thường, đơn giản. + Chức năng giáo dục. Văn học có chức năng giáo dục ở chỗ nó góp phần tích cực trong việc bồi dưỡng tâm hồn, trí tuệ, tình cảm, đạo đức, nói một cách khái quát là góp phần hình thành, nâng cao, phát triển nhân cách con người. Nghệ thuật trở thành phương tiện tác động quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm; bởi vì văn nghệ chính là tình cảm, văn nghệ tác động vào con người cũng là tác động vào tình cảm. Văn nghệ giáo dục con người bằng con đường tình cảm, vì thế mà văn nghệ là vũ khí rất sắc bén. Con đường văn nghệ đến với độc giả, tác động, cải biến độc giả rất tinh tế. Văn nghệ không phải là người thầy thuyết giáo đạo đức mà như một người bạn đồng hành tâm tình, đối thoại với độc giả về những vấn đề nhân cách: lương tri và tội lỗi, cao thượng và thấp hèn, thiện và ácVăn nghệ như một tấm gương để người đọc tự soi mình nào đó, người đọc hiểu mình và tự thanh lọc tình cảm của mình theo cái thiện. Văn nghệ chuyển quá trình giáo dục thành tự giáo dục. Người đọc say mê vẻ đẹp hình tượng, tự nguyện sống theo vẻ đẹp hình tượng. Cuối cùng cũng cần lưu ý thêm rằng, sở dĩ nghệ thuật dễ tác động, cải biến được con người là vì nó hấp dẫn, vui tươi. Ở đây dường như giáo dục, giải trí, vui chơi là một. Thậm chí chính trong những tác phẩm có vẻ thiếu “nghiêm chỉnh” nhất (như các thể loại hài hước, châm biếm) thì việc giáo dục, trước hết là giáo dục đạo đức, lại được đặt ra hết sức nghiêm chỉnh. Chính vì sức mạnh cải biến, tác động của văn học âm thầm mà mãnh liệt như vậy nên rất đòi hỏi ở người nghệ sĩ lương tâm, trách nhiệm trước ngòi bút của mình; tránh lối viết cẩu thả để rồi gây nên những tác động xấu đến sự phát triển, hoàn thiện nhân cách của con người. + Chức năng thẩm mĩ. Nhìn chung chức năng thẩm mĩ của văn học bộc lộ ở chỗ nó có nhiệm vụ thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người. Cần hiểu rằng nhu cầu hưởng thụ cái đẹp là nhu cầu rất tự nhiên, mang tính bản chất của con người. Dù ở đâu, làm gì, khi nào con người cũng luôn có xu hướng vươn tới cái đẹp. Thỏa mãn nhu cầu về cái đẹp không phải chỉ riêng văn học nhưng văn học thiên về cái đẹp nhiều hơn cả. Nhà mĩ học, nhà phê bình văn học nổi tiếng nước Nga Biêlinxki đã nói: “Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu được của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì không có và không thể có nghệ thuật. Đó là một định lý”. Văn học thể hiện chức năng thẩm mĩ, nghĩa là đưa cái đẹp đến với đến với con người thông qua hình tượng nghệ thuật. Mỗi hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học là kết quả sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ sau quá trình công phu nhào nặn chất liệu tự nhiên. Một Nguyễn Bá Ngọc dũng cảm cứu bạn thoát chết khỏi bom Mĩ nhưng mình lại hy sinh. Một Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai cho bộ đội ta tiến lên diệt giặc Pháp. Một cuộc đời “nâng niu tất cả chỉ quên mình" của Bác Hồ. Một tiếng thét “Anh em ơi tuốt gươm ra” để giành lại Tổ quốc của Phan Bội Châu. Một tiếng chửi của Hồ Xuân Hương “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”. Một tiếng chim chiền chiện hót trên cao. Một áng mây chiều nhè nhẹ trôi trên bầu trời. Tất cả đều đẹp! Văn học sẽ giúp ta nhận ra cái đẹp đó. Mặt khác, thấy Sở Khanh ta ghét, Bá Kiến ta thùCái ghét cái thù đó cũng đưa ta đến với cái đẹp bằng con đường phản cảm. Đưa con người đến với cái đẹp, lí luận coi đó là chức năng thẩm mĩ của văn học. Vấn đề 2: Tiếp nhận văn học. * Tiếp nhận trong đời sống văn học: Bên cạnh hoạt động sản xuất ra của cải vật chất để tồn tại và phát triển, loài người còn có hoạt động sản xuất rất quan trọng đó là sản xuất ra của cải tinh thần. Văn chương nghệ thuật là một trong những dạng sản xuất của cải tinh thần của con người. Quá trình sản xuất ra của cải tình thần – tác phẩm nghệ thuật diễn ra như thế nào? Phải chăng khi nhà văn nung nấu ý đồ rồi lập sơ đồ, viết, sửa chữa và hoàn thành tác phẩm là quá trình sản xuất tinh thần đã hoàn tất? Không phải như vậy. Hiểu một cách đúng đắn và nghiêm ngặt thì xong khâu sửa chữa, việc sáng tạo nghệ thuật mới chỉ hoàn thành được một công đoạn trong cả quá trình sản xuất. Đó là công đoạn hoàn thành văn bản tác phẩm. Nếu ví tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần của nhà văn, nhà văn thai nghén, mang nặng đẻ đau thì hoàn thành văn bản tác phẩm chỉ ứng với lúc đứa con sinh ra, đứa con chào đời. Còn sự sống, cuộc đời, số phận của nó thế nào thì chưa được nói đến. Số phận của đứa con sẽ được định đoạt như thế nào là tùy thuộc vào nó và xã hội xung quanh. Số phận của tác phẩm nghệ thuật như thế nào là tùy thuộc vào nó và những người tiếp nhận nó. Chỉ đến khi được người đọc tiếp nhận thì hoạt động sáng tạo nghệ thuật mới hoàn tất. Hoạt động sản xuất tinh thần này cũng giống như hoạt động sản xuất vật chất. Chỉ có sử dụng mới hoàn tất hành động sản xuất. Một vật phẩm làm ra nhưng không được đưa vào sử dụng thì nó chẳng có ích lợi gì cho sự sống, nó chẳng có giá trị gì cả. Một tác phẩm nghệ thuật được viết xong nằm im trong ngăn kéo của nhà văn hoặc không được ai đoái hoài tới thì chưa phải là tác phẩm nghệ thuật thực sự. Vì nó chưa được sử dụng. Nghệ thuật có chức năng giao tiếp, khi chưa được giao tiếp với người đọc thì nghệ thuật chưa sống đúng với vai trò của nó. Quá trình giao tiếp của nghệ thuật là quá trình sử dụng sản phẩm của nghệ thuật, là quá trình phát huy tác dụng chức năng của nghệ thuật. Quá trình đó xác định con đường sống, số phận lịch sử của tác phẩm nghệ thuật. Sơ đồ của quá trình sáng tác – giao tiếp của văn chương như sau: Nhà văn – Tác phẩm – Bạn đọc Như vậy, có 3 giai đoạn của quá trình sinh tồn tác phẩm văn chương: Giai đoạn 1 là giai đoạn hình thành ý đồ sáng tác, giai đoạn 2 là giai đoạn sáng tác. Đây là giai đoạn ý đồ sáng tác cộng với tài năng sáng tạo được vật chất hóa trong chất liệu ngôn ngữ, thành tác phẩm. Giai đoạn 3 là giai đoạn tiếp
Tài liệu đính kèm:
- skkn_giup_hoc_sinh_hinh_thanh_va_van_dung_linh_hoat_kien_thu.doc