SKKN Dạy bài chiếu cầu hiền của ngô thì nhậm theo định hướng phát triển năng lực học sinh

SKKN Dạy bài chiếu cầu hiền của ngô thì nhậm theo định hướng phát triển năng lực học sinh

Hiện nay giáo dục phổ thông nước ta đã và đang chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh làm được cái gì và làm như thế nào qua việc học. Để thực hiện được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” nặng về truyền thụ kiến thức sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập để có tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động dạy học và giáo dục. Trước bối cảnh đó, việc chuyển từ dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng nội dung sang dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng phát triển năng lực của người học là cần thiết và là hướng đi phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo.

Là một giáo viên đứng trên bục giảng tôi luôn băn khoăn suy nghĩ, trăn trở làm cách nào có thể nâng cao được chất lượng giáo dục học sinh và điều quan trọng hơn là học sinh qua mỗi bài học các em có thể khám phá được những tri thức mới như thế nào và làm sao để học sinh có thể phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo, vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học vào trong học tập và ứng dụng vào thực tế cuộc sống, đồng thời phát huy được năng lực vốn có của học sinh. Trong những năm qua, việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá đã đạt được những thành công bước đầu. Đó là những tiền đề vô cùng quan trọng để chúng ta tiến tới việc việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng phát triển năng lực của người học.

 

doc 35 trang thuychi01 6361
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Dạy bài chiếu cầu hiền của ngô thì nhậm theo định hướng phát triển năng lực học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm 
DẠY BÀI CHIẾU CẦU HIỀN 
CỦA NGÔ THÌ NHẬM THEO ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
Người thực hiện: Bùi Thị Ngọc Hà
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ Văn
THANH HÓA NĂM 2019
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Hiện nay giáo dục phổ thông nước ta đã và đang chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh làm được cái gì và làm như thế nào qua việc học. Để thực hiện được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” nặng về truyền thụ kiến thức sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập để có tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động dạy học và giáo dục. Trước bối cảnh đó, việc chuyển từ dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng nội dung sang dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng phát triển năng lực của người học là cần thiết và là hướng đi phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo.
Là một giáo viên đứng trên bục giảng tôi luôn băn khoăn suy nghĩ, trăn trở làm cách nào có thể nâng cao được chất lượng giáo dục học sinh và điều quan trọng hơn là học sinh qua mỗi bài học các em có thể khám phá được những tri thức mới như thế nào và làm sao để học sinh có thể phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo, vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học vào trong học tập và ứng dụng vào thực tế cuộc sống, đồng thời phát huy được năng lực vốn có của học sinh. Trong những năm qua, việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá đã đạt được những thành công bước đầu. Đó là những tiền đề vô cùng quan trọng để chúng ta tiến tới việc việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng phát triển năng lực của người học. 
Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như việc đi dự giờ đồng nghiệp tôi thấy rằng sự sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức. Việc rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết các tình huống thực tiễn cho học sinh thông qua khả năng vận dụng tri thức tổng hợp chưa thực sự được quan tâm. Việc ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông, sử dụng các phương tiện dạy học chưa được thực hiện rộng rãi và hiệu quả trong các trường trung học phổ thông. Những giờ dạy học Ngữ văn trước đây tôi thấy dù có thành công mấy đi chăng nữa thì học sinh mới chỉ dừng lại ở mức độ lĩnh hội, tiếp thu và ghi nhớ tri thức một cách máy móc mà chưa phát huy hết được năng lực chủ động, sáng tạo trong quá trình chiếm lĩnh tri thức mới.Tất cả những điều đó dẫn tới học sinh học thụ động, lúng túng khi giải quyết các tình huống trong thực tiễn. Vì những lí do trên, tôi chọn nội dung: “Dạy bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm theo định hướng phát triển năng lực học sinh” làm đối tượng nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trọng tâm của đề tài là nghiên cứu việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực ở học sinh khi dạy bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm. Người giáo viên lựa chọn những phương pháp nào, cách thức tổ chức dạy - học như thế nào để phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh trên cơ sở đó giúp các em có được cách nhìn nhận vấn đề thiết thực với cuộc sống hơn. Mặt khác cũng tạo điều kiện để các em được thể hiện quan điểm của cá nhân, biết vận dụng kiến thức để giải quyết các tình huống thực tiễn. Qua mỗi phần của bài học phần nào giúp học sinh phát triển được năng lực của cá nhân gồm: Năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự học tự nghiên cứu, năng lực giao tiếp, năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mĩ Đồng thời qua đó giáo dục học sinh vào việc trau dồi đức và tài để sống tốt, sống đẹp, sống có ý nghĩa trong tương lai.
Sau khi nghiên cứu và rút kinh nghiệm, tôi hi vọng những cách tiếp cận, dạy học theo định hướng phát triển năng lực của người học sẽ trở nên có hiệu quả hơn, từ đó có thể áp dụng rộng rãi cho việc dạy học bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm trong chương trình Ngữ văn THPT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng trực tiếp của tôi là bài Chiếu cầu hiền (Cầu hiền chiếu) của Ngô Thì Nhậm viết thay vua Quang Trung, trong SGK Ngữ văn 11, tập 1 (cơ bản) - Nhà xuất bản giáo dục.
- Để thử nghiệm đề tài tôi chọn học sinh lớp 11A và 11E năm học 2018- 2019 trường Trung học phổ thông Dân Tộc Nội Trú Tỉnh để thực hiện.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu các tài liệu: SGK Ngữ văn 11 (tập 1), SGV Ngữ văn 11 (tập 1), tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng Ngữ văn 11 và các tài liệu tham khảo khácđể xây dựng kế hoạch, thiết kế bài học, dự kiến quy trình, kết quả.
- Sử dụng các phương pháp đọc hiểu, phân tích, phân tích - tổng hợp, tích hợp, thống kê, so sánh đối chiếu, thực nghiệm khoa học, hoạt động nhóm, nghiên cứu tình huống
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận.
Trong giai đoạn hiện nay nền giáo dục của nước ta đã và đang thực hiện đổi mới một cách căn bản và toàn diện. Từ đổi mới về chương trình giáo dục đến việc đổi mới về phương pháp dạy học và cách đánh giá kết quả học tập của học sinh. Nghị quyết số 29 của BCH TW8 khóa XI được triển khai tạo cơ sở cho giáo viên tích cực hơn trong việc tìm tòi, sáng tạo những phương pháp dạy học mới chú trọng đến người học mà dạy học phát triển năng lực được xem là một phương pháp dạy học hiệu quả, học sinh được tìm tòi, được thể hiện quan điểm của mình trong quá trình học tập. 
Năng lực được hiểu là: “Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” (Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên - NXB Đà Nẵng, 1998)
Trong tài liệu tập huấn việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng phát triển năng lực của học sinh do Bộ giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2014 thì “Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân, nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định”. Định hướng chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015 đã xác định những năng lực cốt lõi mà học sinh Việt Nam cần phải có như:
- Năng lực làm chủ và phát triển bản thân, bao gồm: Năng lực tự học; Năng lực giải quyết vấn đề; Năng lực sáng tạo; Năng lực quản lí bản thân.
- Năng lực xã hội, bao gồm: Năng lực giao tiếp; Năng lực hợp tác.
- Năng lực công cụ, bao gồm: Năng lực tính toán; Năng lực sử dụng ngôn ngữ; Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin (ITC)
Như vậy có thể hiểu một cách ngắn gọn năng lực là khả năng vận dụng tất cả những yếu tố chủ quan (mà bản thân có sẵn hoặc được hình thành qua học tập) để giải quyết các vấn đề trong học tập, công tác và cuộc sống.
Theo UNESSCO, việc học (kiến thức) có mối quan hệ chặt chẽ với năng lực.
Dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực nghĩa là thông qua bộ môn, học sinh có khả năng kết hợp một cách linh hoạt, có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, động cơ cá nhân nhằm đáp ứng hiệu quả một số yêu cầu phức hợp của hoạt động trong một số hoàn cảnh nhất định.
Các năng lực mà môn học Ngữ văn hướng đến:
+ Năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề.
+ Năng lực sáng tạo.
+ Năng lực hợp tác
+ Năng lực tự học, tự nghiên cứu
+ Năng lực giao tiếp tiếng Việt 
+ Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mĩ
Việc dạy học văn bản Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm không chỉ yêu cầu học sinh nắm vững những tri thức cơ bản về bài Chiếu cầu hiền (Ngô Thì Nhậm), hiểu được tư tưởng mang tính chiến lược, chủ trương tập hợp nhân tài để xây dựng đất nước của vua QT mà còn yêu cầu học sinh phải nhận thức được vai trò quan trọng của người hiền tài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời buổi hiện nay từ đó liên hệ với bản thân cần phải cố gắng trau dồi tài và đức để sống tốt, sống đẹp, sống có ý nghĩa trong tương lai. Đồng thời qua đó giúp học sinh hình thành những chuẩn mực trong suy nghĩ và trong hành động, có khả nãng giải quyết tình huống thực tiễn một cách linh hoạt.
2.2. Thực trạng.
Từ những thực tế nói trên vấn đề dạy học gắn với phát triển năng lực học sinh đã được đề cập nhiều và đã được áp dụng ở nhiều trường học, nhiều cơ sở giáo dục. Ở trường THPT DTNT Tỉnh, vấn đề này cũng hết sức được quan tâm từ việc chỉ đạo của nhà trường đến đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên.
Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy của bản thân và việc dự giờ đồng nghiệp, qua nhiều năm, tôi thấy việc dạy - học các tiết Ngữ văn tại đơn vị còn có những tồn tại sau: 
- Dạy học đọc - hiểu còn mang nặng tính truyền thụ một chiều những cảm nhận của giáo viên về văn bản. Nhìn chung vẫn là chú trọng dạy kiến thức hơn là hình thành kỹ năng.
- Dạy học tích hợp đã được chú trọng, tuy nhiên, dạy học tích hợp vẫn mang tính khiên cưỡng, nội dung tích hợp vào bài học còn cứng nhắc, chưa làm cho học sinh huy động kiến thức, kỹ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực để giải quyết các nhiệm vụ học tập. Việc tích hợp nội môn và tích hợp liên môn chưa thực sự hiệu quả, chính vì vậy chưa giúp học sinh hình thành kiến thức, kỹ năng mới và tất nhiên các năng lực của học sinh chưa được phát triển.
- Việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực còn mang tính hình thức. Phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức nhưng chủ yếu vẫn dựa vào một vài cá nhân học sinh tích cực tham gia, các thành viên còn lại còn dựa dẫm, ỉ lại chưa thực sự chủ động. Mục đích của thảo luận nhóm chưa đạt được tính dân chủ, mọi cá nhân chưa thực sự được tự do bày tỏ quan điểm, thói quen bình đẳng, chưa biết đón nhận quan điểm bất đồng để hình thành quan điểm cá nhân.
- Phương pháp đóng vai thực sự là phương pháp chưa được giáo viên chú trọng. Nếu có thực hiện thì việc xử lí tình huống giả định, trình bày một vấn đề chưa được quan tâm đúng mức. 
Mặc dù đã có giáo viên thực hiện thay đổi phương pháp dạy học, thay đổi cách thức tổ chức giờ học song kết quả chưa đạt được như mong muốn mà nguyên nhân là:
+ Về phía giáo viên: Việc đổi mới phương pháp dạy học cũng không được thực hiện một cách triệt để, vẫn còn nặng về phương pháp truyền thống truyền thụ một chiều. Bên cạnh đó việc ứng dụng CNTT trong dạy học cũng hạn chế - một phần là do kỹ năng sử dụng máy chiếu của họ hạn chế, vì vậy họ ngại áp dụng vì mất thời gian.
+ Về phía học sinh: Học sinh ở trường THPT DTNT chủ yếu là học sinh vùng miền núi còn nhiều khó khăn, lại ở nội trú nên việc tiếp cận và tìm tòi những thông tin thời sự hoặc tài liệu phục vụ cho bài học còn hạn chế. Một số học sinh chưa có phương pháp học tập phù hợp, chưa tích cực trong việc tìm tòi nghiên cứu bài học, chưa tự tin, mạnh dạn thể hiện quan điểm của bản thân trong các hoạt động tập thể.
Yêu cầu đặt ra là phải thay đổi, thay đổi cả ở người dạy và ở người học để sau mỗi bài dạy - học học sinh không chỉ có được hiểu biết (kiến thức) mà còn phải phát triển được năng lực bản thân, có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu về đổi mới giáo dục. 
Trong quá trình áp dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh, tôi nhận thấy:
2.2.1. Những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh tại trường THPT DTNT Tỉnh:
* Thuận lợi:
- Các hoạt động chuyên môn của nhà trường luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao từ phía lãnh đạo Sở giáo dục và đào tạo.
- Việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá được lãnh đạo nhà trường quan tâm chỉ đạo thực hiện một cách tích cực, có hệ thống, bám sát chủ trương đổi mới nền giáo dục của Đảng và nhà nước. 
- Đội ngũ giáo viên trẻ khỏe và có trình độ chuyên môn vững, được đào tạo chuẩn và trên chuẩn và đã được tham gia các lớp tập huấn về chuyên môn do Sở giáo dục và đào tạo tổ chức hàng năm.
- Đa số học sinh học tập tích cực và có sự hợp tác chặt chẽ với giáo viên trong quá trình dạy - học.
- Cơ sở vật chất được đầu tư: Mạng, máy tính, máy chiếu được trang bị phục vụ dạy học, học sinh được trang bị phòng máy, trang bị kiến thức về vi tính để khai thác thông tin trên mạng Internet.
* Khó khăn:
- Một số giáo viên chưa mạnh dạn thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, dạy học còn mang nặng cách dạy truyền thống truyền thụ kiến thức mà chưa chú ý đến phát triển năng lực ở học sinh.
- Một số học sinh chưa có phương pháp học tập phù hợp, chưa tích cực trong việc tìm tòi nghiên cứu bài học, chưa thực sự tự tin trong quá trình hoạt động nhóm. Học sinh ở nội trú nên việc tiếp cận và tìm tòi những thông tin thời sự hoặc tài liệu phục vụ cho bài học còn hạn chế. 
2.2.2. Những thành công khi áp dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
Dạy học phát triển năng lực học sinh sẽ tạo được nhiều cơ hội hơn cho học sinh thể hiện mình. Với mỗi hoạt động học sinh sẽ nhận thấy vai trò, vị trí của cá nhân trong tập thể, từ đó các em sẽ tự tin và cố gắng hơn trong quá trình học tập. Phương pháp này sẽ kích thích được mọi học sinh tích cực làm việc đặc biệt là những học sinh yếu bởi chính những học sinh này sẽ được giáo viên và các bạn cùng nhóm để ý đến nhiều hơn. Khi phát triển được các năng lực trong quá trình học tập tức là học sinh thấy rõ vai trò vị trí của mình, từ đó sẽ biết nỗ lực để hoàn thành nhiệm vụ, biết hành động vì người khác và đó chính là một cách để hoàn thiện nhân cách người học sinh
2.3. Giải pháp.
a. Biện pháp tiến hành
- Hình thức: Thực nghiệm SKKN trên một lớp 11E so với một lớp dạy theo phương pháp chung 11A năm học 2018 - 2019 để thực nghiệm đối chiếu.
- Cách tổ chức: 
+ Lớp thực nghiệm tiến hành theo quy trình của SKKN, lớp đối chiếu theo cách thức chung của tiết dạy văn bản. 
+ Lớp thực nghiệm tiến hành theo các bước:
Bước 1: GV xây dựng kế hoạch.
Bước 2: Giao nhiệm vụ cụ thể cho HS (mục tiêu, phương pháp, phương tiện, kiến thức liên quan, các bước tiến hành)
Bước 3: Thực nghiệm (thời gian thực nghiệm là trong năm học 2018-2019, lớp thực nghiệm 11E, lớp đối chiếu là 11A)
Bước 4: Rút kinh nghiệm, đưa ra giải pháp sau khi đánh giá kết quả cụ thể từ so sánh, đối chiếu, rút kinh nghiệm. Trao đổi, thảo luận, góp ý thông qua sinh hoạt tổ chuyên môn của tổ Ngữ văn.
* Mô tả qua cấu trúc một bài học:
I. Mục tiêu bài học:
- Phần kiến thức, kĩ năng, thái độ: theo chuẩn kiến thức kĩ năng môn học.
- Phần mới: định hướng góp phần hình thành năng lực người học.
II. Chuẩn bị của GV và HS:
- Chuẩn bị của GV: Giáo án/ thiết kế bài học, giáo án powerpoit, 4 tờ giấy A0, 4 bút dạ, SGK-SGV Ngữ văn 11, chia lớp thành 4 nhóm và giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm, cử trưởng nhóm để trình bày kết quả làm việc của nhóm.
- Chuẩn bị của HS: HS soạn bài, sưu tầm các tư liệu ngoài văn bản liên quan đến tác phẩm Chiếu cầu hiền trên các nguồn: mạng Internet, báo chí, sách vở, tranh ảnh... HS hoạt động nhóm theo phân công của GV.
III. Tiến trình dạy học:
Bước 1: GV xây dựng, thiết kế bài học theo phân phối chương trình. GV giao nhiệm vụ cụ thể cho từng HS và từng nhóm HS.
Bước 2: GV triển khai thành các hoạt đông dạy - học ở trên lớp.
Bước 3: GV tổng kết, rút kinh nghiệm, củng cố nội dung kiến thức, kĩ năng.
Bước 4: GV giao nhiệm vụ cho các bài học tiếp theo.
b. Các giải pháp cụ thể:
Các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại luôn là những phương pháp quan trọng trong dạy học. Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học mới, đặc biệt là những phương pháp và kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh .
Giải pháp 1: Làm tốt khâu chuẩn bị cho bài dạy.
Giải pháp 2. Thực hiện giờ dạy học theo hướng mở, vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực:
- Mở đầu bài học một cách hấp dẫn.
Để tạo hứng thú và chú ý cho học sinh ngay từ đầu tiết học, GV tổ chức hoạt động khởi động bằng một trò chơi đoán tên tác phẩm văn học đã học qua 4 dữ liệu gợi ý. Đoán được ở gợi ý thứ nhất được 9 điểm, gợi ý thứ 2 được 8 điểm, gợi ý thứ 3 được 7 điểm, gợi ý thứ 4 được 6 điểm. Cụ thể:
Đây là tác phẩm nào?
Phản ánh khát vọng của nhân dân ta về một đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường và khí phách của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.
Tác phẩm được viết bằng thể văn nghị luận chính trị - xã hội thời trung đại, có chức năng ban bố mệnh lệnh của nhà vua.
Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, ra đời gắn liền với một sự kiện trọng đại của dân tộc năm 1010.
Tác giả: Lý Công Uẩn.
Sau khi học sinh trả lời là tác phẩm Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn thì GV bắt sang giới thiệu về bài học Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm.
- Tổ chức giờ dạy bằng sự kết hợp linh hoạt nhiều phương pháp:
+ Phương pháp thuyết trình:
Với phương pháp thuyết trình của học sinh, ở văn bản "Chiếu cầu hiền", giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu ở nhà những thông tin ngoài sách giáo khoa về tác giả Ngô Thì Nhậm, về Quang Trung, về thể chiếu nói chung và tác phẩm “Chiếu cầu hiền” nói riêng. Trên lớp, học sinh chia sẻ những hiểu biết đó để giờ học sinh động, sôi nổi hơn.
Còn đối với GV phương pháp thuyết trình dùng ở lời giới thiệu vào bài mới, lời tiểu kết ở mỗi phần, lời tổng kết giá trị nội dung và nghệ thuật ở phần cuối bài, phần giới thiệu thêm về Ngô Thì Nhậm, Quang Trung, về thể chiếu, về tác phẩm
+ Phương pháp đàm thoại:
GV sử dụng hệ thống câu hỏi đàm thoại để định hướng học sinh tiếp cận các đơn vị kiến thức. VD:
- Em hãy giới thiệu những hiểu biết của em về tác giả Ngô Thì Nhậm? 
- Vì sao Ngô Thì Nhậm đi theo Tây Sơn? Các em có nhận xét gì về cách xử sự này của ông?
=> Học sinh trình bày ý kiến, quan điểm. Giáo viên chốt lại vấn đề.
+ Phương pháp hoạt động nhóm:
Giáo viên chia lớp thành 4 cho học sinh hoạt động nhóm, thảo luận, nêu ý kiến về 4 nội dung (chuẩn bị ở nhà) 
Nội dung 1: Quy luật xử thế của người hiền tài.
Nội dung 2: Thái độ của sĩ phu Bắc Hà đối với triều đại mới Tây Sơn.
Nội dung 3: Nhu cầu của thời đại.
Nội dung 4: Đường lối cầu hiền của vua Quang Trung.
Sau đó, mời đại diện lên trình bày trước lớp. Các nhóm còn lại lắng nghe, nhận xét, bổ sung.
+ Phương pháp đóng vai: 
Giáo viên cho học sinh đóng vai Quang Trung để đọc Chiếu cầu hiền.
+ Phương pháp nghiên cứu tình huống: GV đưa ra những tình huống có vấn đề để HS bộc lộ quan điểm và kiến thức xã hội. VD: Theo em, chính sách “chiêu hiền đãi sĩ”, trọng dụng người hiền tài đến nay còn cần thiết không? Hãy kể những việc Đảng và Nhà nước ta đã làm để khuyến khích hiền tài? 
Giải pháp 3. Thực hiện dạy học tích hợp, liên môn.
- Tích hợp với phân môn Lịch sử khi dạy về hoàn cảnh lịch sử xã hội dẫn đến sự ra đời của bài Chiếu cầu hiền, khi giới thiệu những tư liệu về Quang Trung và Ngô Thì Nhậm, những thống kê về thể chiếu ở Việt Nam 
- Tích hợp với phân môn Tiếng Việt (Nghĩa của từ: giải thích nghĩa của từ “hiền tài”), phân môn Làm văn (Viết đoạn văn nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lí: từ bài Chiếu cầu hiền hãy viết đoạn văn dài 200 chữ về vai trò của người hiền tài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay).
- Tích hợp giữa kiến thức trong sách vở với kiến thức thực tế ngoài cuộc sống: Hãy kể tên những việc Đảng và Nhà nước ta đã làm để nhằm khuyến khích hiền tài trong thời đại mới?
=> Tạo hứng thú cho hs. 
Giải pháp 4. Tăng cường ứng dụng CNTT hỗ trợ các phương pháp dạy học theo đặc thù môn Ngữ văn.
Sử dụng tranh ảnh tư liệu phục vụ cho bài dạy, phần mềm trình chiếu Powerpoin. Có thể nói sự thành công của phương pháp dạy học mới là nhờ có sự hỗ trợ tích cực từ CNTT. Có thể mất nhiều thời gian hơn trong khâu chuẩn bị song chính CNTT làm cho công việc của người gi

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_day_bai_chieu_cau_hien_cua_ngo_thi_nham_theo_dinh_huong.doc