Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm

Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm

Trong một vài năm học gần đây cũng như trong năm học này, bạo lực học đường ngày càng gia tăng, học sinh (HS) tự tử vì nhiều nguyên nhân. HS không hứng thú trong học tập, đánh nhau trong nhà trường, bị xâm phạm, bị lợi dụng, . là do các em không có khả năng ứng phó với những áp lực căng thẳng trong cuộc sống, không biết giải quyết xung đột, không tiết chế được cảm xúc bản thân. Theo các chuyên gia giáo dục (GD), nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu kỹ năng sống (KNS).

Vấn đề HS thiếu KNS, thiếu tính tự tin, thiếu tự lập, sống thiếu trách nhiệm với bản thân và gia đình, ích kỉ, vô tâm đang là những rào cản lớn cho sự phát triển toàn diện của thanh thiếu niên khiến nhiều bậc phụ huynh và giáo viên (GV) phiền lòng, trong khi xã hội thì phát triển ngày càng năng động.

Mặt khác tình trạng bạo lực học đường ngày một gia tăng thì kỹ năng (KN) tự bảo vệ mình, KN tiết chế cảm xúc bản thân, KN giải quyết mâu thuẩn là rất cần thiết và phải được coi trọng để giúp các em HS cảm nhận những điều đang diễn ra trong cuộc sống hàng ngày thật có ý nghĩa, các em có cảm giác thoải mái, an toàn và vui vẻ.

Hiện nay nhiều HS sống khép kín thu mình lại, thờ ơ lạnh nhạt với những người sống xung quanh, đắm chìm trong thế giới ảo của game online, của internet, mà đánh mất chính mình, không quan hệ bạn bè, không thể hiện được mình, rụt rè khi đứng trước đám đông, gặp người lớn thì không chào hỏi, thiếu tôn trọng thầy cô giáo, sống thiếu niềm tin và hoài bão,

Đứng trước vấn nạn sa sút về đạo đức lối sống của HS, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra chỉ thị "tăng cường nội dung giảng dạy kỹ năng sống cho học sinh", tích cực lồng ghép dạy học tích hợp GD KNS cho các em HS ở tất cả các môn học trong nhà trường.

 

docx 34 trang thuychi01 5810
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A - MỤC ĐÍCH, SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
Trong một vài năm học gần đây cũng như trong năm học này, bạo lực học đường ngày càng gia tăng, học sinh (HS) tự tử vì nhiều nguyên nhân. HS không hứng thú trong học tập, đánh nhau trong nhà trường, bị xâm phạm, bị lợi dụng, ... là do các em không có khả năng ứng phó với những áp lực căng thẳng trong cuộc sống, không biết giải quyết xung đột, không tiết chế được cảm xúc bản thân. Theo các chuyên gia giáo dục (GD), nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu kỹ năng sống (KNS).
Vấn đề HS thiếu KNS, thiếu tính tự tin, thiếu tự lập, sống thiếu trách nhiệm với bản thân và gia đình, ích kỉ, vô tâm đang là những rào cản lớn cho sự phát triển toàn diện của thanh thiếu niên khiến nhiều bậc phụ huynh và giáo viên (GV) phiền lòng, trong khi xã hội thì phát triển ngày càng năng động.
Mặt khác tình trạng bạo lực học đường ngày một gia tăng thì kỹ năng (KN) tự bảo vệ mình, KN tiết chế cảm xúc bản thân, KN giải quyết mâu thuẩn là rất cần thiết và phải được coi trọng để giúp các em HS cảm nhận những điều đang diễn ra trong cuộc sống hàng ngày thật có ý nghĩa, các em có cảm giác thoải mái, an toàn và vui vẻ. 
Hiện nay nhiều HS sống khép kín thu mình lại, thờ ơ lạnh nhạt với những người sống xung quanh, đắm chìm trong thế giới ảo của game online, của internet, mà đánh mất chính mình, không quan hệ bạn bè, không thể hiện được mình, rụt rè khi đứng trước đám đông, gặp người lớn thì không chào hỏi, thiếu tôn trọng thầy cô giáo, sống thiếu niềm tin và hoài bão, 
Đứng trước vấn nạn sa sút về đạo đức lối sống của HS, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra chỉ thị "tăng cường nội dung giảng dạy kỹ năng sống cho học sinh", tích cực lồng ghép dạy học tích hợp GD KNS cho các em HS ở tất cả các môn học trong nhà trường.
Tuy nhiên với thói quen dạy và học chưa có tích hợp GD KNS trước kia, nhiều GV cảm thấy rất khó khăn khi lồng ghép GD KNS cho HS vào giờ học. Hơn thế nữa, GD KNS cho các em HS là rất cần thiết nhưng do mới được yêu cầu áp dụng rộng rãi nên còn chưa có tài liệu chuẩn cho các nhà trường vận dụng. Nhiều trường học hiểu không rõ về chương trình này lại càng hoang mang, không biết dạy cái gì và dạy như thế nào. Nhiều GV bối rối không biết phải GD KNS cho HS ra làm sao, lồng ghép vào khi nào và lồng ghép như thế nào cho hợp lí. Ngay cả một số GV cũng chưa có những KNS cần thiết để áp dụng vào cuộc sống thì việc vận dụng các phương pháp GD KNS để truyền đạt nội dung tới các em HS lại càng khó khăn.
Trước tình hình như vậy tôi mong rằng chúng ta hãy nhìn thẳng vào nguyên 
nhân của thực trạng trên thì sẽ có cách khắc phục để đem lại hiệu quả lâu dài. Tôi nghĩ việc này không hề khó khăn gì bởi chúng ta tin tưởng một điều rằng không có HS nào muốn mình kém cỏi, muốn mình hư hỏng cả. Ai cũng muốn mình trở thành con người hoàn thiện cả về tri thức và nhân cách. Ngành GD luôn đồng hành cùng gia đình và xã hội, mặt khác chính các em HS cũng tha thiết mong những điều tốt đẹp nhất, do đó chúng ta (những nhà GD) hãy biết kéo họ về phía mình. 
Muốn thành công thì dù chúng ta đã là GV cũng hãy mãi là sinh viên trường đời để không ngừng học hỏi. Hãy học để mà dạy lại cho các em và học để cuộc sống của mình thành công, hạnh phúc hơn. Không ai có thể khẳng định rằng mình có đủ KNS để ứng phó với mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống. Vì vậy chúng ta phải luôn học hỏi, học hỏi suốt đời để đúc rút được nhiều hơn các kinh nghiệm sống. 
Là một GV trong nhà trường, trực tiếp đứng trên bục giảng, qua những năm công tác tại trường Trung học phổ thông (THPT) Nông Cống II, tôi nhận thấy rằng các em HS của trường THPT Nông Cống II rất thiếu và yếu về KNS. Các em rất nhút nhát, không mạnh dạn tham gia các hoạt động tập thể, KN giao tiếp cực kì hạn chế, KN giải quyết mâu thuẫn lại càng hạn chế hơn, ví như (chỉ với mâu thuẫn tình cảm nam nữ, các em sẵn sàng gây gỗ đánh nhau, chỉ một xích mích nhỏ đã kéo nhau ra sân vận động đánh nhau, ...). Vì vậy trong những năm học gần đây, tôi luôn trăn trở là làm thế nào để các em có được nhận thức đúng đắn về giá trị cuộc sống cũng như có cách giải quyết mâu thuẫn trong cuộc sống một cách tốt đẹp nhất. Cũng xuất phát từ đây, trong những giờ tôi lên lớp tôi luôn chú trọng việc dạy học lồng ghép GD KNS cho các em HS thông qua bộ môn của mình. Đặc biệt trong công tác chủ nhiệm đây là cơ hội tốt nhất để gần gủi và GD KNS cho các em HS của lớp mình. Vì vậy khi được giao nhiệm vụ làm công tác chủ nhiệm, tôi đã chủ động lên kế hoạch (KH) cho những tiết sinh hoạt lớp, những buổi sinh hoạt tập thể, sinh hoạt dưới cờ... để làm sao qua những hoạt động tập thể trên các em có thêm được nhiều KNS cần thiết từ đó giúp các em ngày một tiến bộ hơn.
Từ những thực trạng và mong muốn trên, cùng với những trải nghiệm và kết quả đạt được trong công tác chủ nhiệm, công tác nề nếp, đặc biệt là công tác GD KNS cho các em HS lớp chủ nhiệm, tôi mạnh dạn thực hiện đề tài:
“Một số phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm”. 
II. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
 Đề tài ra đời nhằm GD KNS cho các em HS lớp 11A7,11A5, 11A2 trường THPT Nông Cống II, qua đó giúp các em HS:
 - Có khả năng giao tiếp, ứng xử một cách linh hoạt và đạt hiệu quả cao.
 - Làm chủ được bản thân, sống tự tin, năng động.
 - Biết cách ứng phó trước những tình huống khó khăn trong cuộc sống hằng ngày, biết cách giải quyết những mâu thuẫn trong cuộc sống dễ dàng.
 - Sống có trách nhiệm với bản thân, với gia đình và cộng đồng.
- Sống đoàn kết, có tình cảm hơn, mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình.
- Luôn biết kiềm chế cảm xúc, làm chủ được các hành vi ứng xử của bản thân.
 Như chúng ta đã biết, khoảng cách giữa nhận thức và hành động luôn khá lớn. Việc GD KNS cho HS cần phải khơi gợi và phát huy sự tham gia của các em trên cơ sở có sự hướng dẫn của GV, không nên áp đặt các em. KNS cần được xây dựng trên tình huống cụ thể, gắn với thực tiễn, cần được củng cố qua quá trình thực hành.
B - PHẠM VI TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
 - Các phương pháp GD KNS cho HS lớp chủ nhiệm.
II. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
 1. Thời gian nghiên cứu
 - Từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 4 năm 2019.
 2. Địa điểm nghiên cứu
 - Tại các khối lớp của trường THPT Nông Cống II.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
 - Các lớp tôi đã từng chủ nhiệm: Lớp 11A7 năm học 2018- 2019, lớp 10A2, 11A2, 12A2 từ năm 2014-2017 ở trường THPT Nông Cống II. 
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
 1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu 
 2. Phương pháp thực nghiệm 
 3. Phương pháp phân tích và đánh giá kết quả
 4. Phương pháp viết báo cáo khoa học
C - NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG VIỆC GD KNS CHO HS TRƯỜNG THPT NÔNG CỐNG II
 1. Công tác GD KNS cho HS ở trường THPT Nông Cống II trong thời gian qua
 - Ở trường THPT Nông Cống II chúng tôi đã thực hiện việc GD KNS cho các em HS theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 
 - Việc triển khai áp dụng GD KNS cho các em HS được thực hiện thông qua nhiều nội dung và bằng nhiều hình thức như: Dạy học có tích hợp GD KNS trong ở tất cả các môn học trong chương trình nội khoá, ngoại khoá; GD KNS cho các em HS thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp, qua các buổi sinh hoạt dưới cờ; qua các tiết sinh hoạt lớp; qua các buổi sinh hoạt nội trú, qua các buổi liên hoan văn nghệ.
 - KH GD KNS cho các em HS được triển khai ngay từ đầu năm học để tất cả các cán bộ công nhân viên trong nhà trường nắm được và thực hiện.
 2. Ưu điểm 
 - Việc triển khai thực hiện GD KNS cho các em HS theo đúng yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 
 - Nội dung GD KNS được định hướng và lồng ghép ở nhiều nội dung trong 
chương trình GD của nhà trường.
 - Hình thức tổ chức GD KNS cho các em HS đa dạng.
 - Các GV là người trực tiếp GD KNS cho HS. Việc GD KNS được đề cập và áp dụng thường xuyên. 
 3. Nhược điểm 
 - Cách thức và phương pháp GD KNS nêu trên mặc dù đúng theo quy định nhưng tính thực tiễn chưa cao: Trong quá trình giảng dạy, mặc dù trong giáo án có nội dung tích hợp GD KNS cho HS nhưng nhiều GV chỉ chú trọng đến việc giảng dạy theo nội dung bài học mà quên mất phần GD KNS cho các em HS. Mặt khác, có nhiều GV không biết triển khai và thực hiện như thế nào và vào thời điểm nào là hợp lí.
 - Nhiều buổi sinh hoạt tập thể (sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt nội trú, sinh hoạt lớp, ...) không đạt được hiệu quả GD KNS cho HS do GV không chuẩn bị kỹ nội dung được lồng ghép để GD KNS cho các em HS. Các buổi sinh hoạt tập thể, người tổ chức chỉ chú trọng đến việc đạt được nội dung chính của hoạt động mà ít quan tâm, bố trí thời gian để thực hiện việc GD KNS cho các em HS một cách có hiệu quả.
 - Khi thực hiện nhiệm vụ GD KNS cho HS, cán bộ quản lý và GV ở trường THPT Nông Cống II còn gặp nhiều khó khăn do (chưa có tài liệu hướng dẫn, chưa có KH thực hiện, chưa có tiêu chí đánh giá, đối tượng HS chưa nhanh nhạy, ). 
 - Tổ chức GD KNS có những đặc thù riêng khác với các hoạt động GD khác, nội 
dung GD không chỉ diễn ra trong môn học mà còn thông qua một số hoạt động khác (giờ sinh hoạt lớp, hoạt động ngoài giờ lên lớp, ngoại khoá,...) cho nên đòi hỏi cần có đủ cơ sở vật chất, kinh phí thực hiện.
 - Thói quen trú trọng vào kiến thức mang tính lý thuyết, những nội dung chính của hoạt động từ phía GV sẽ là cản trở lớn khi triển khai GD KNS, loại hình GD nhằm tạo thói quen, thái độ, hành vi ứng xử phù hợp với các tình huống trong cuộc sống.
II. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
 1. Bối cảnh và động lực ra đời của đề tài
 - Do đặc thù HS của trường THPT Nông Cống II chủ yếu là HS người dân tộc nên việc hình thành các KNS ở các lớp dưới là rất ít, rất mờ nhạt. Những hạn chế về GD KNS cho các em ở các cấp học trước cộng với điều kiện sống khó khăn; môi trường sống là ở các bản làng xa xôi hẻo lánh; ông bà, bố mẹ và anh chị em trong gia đình lại là những người rất thiếu KNS nên mặc dù hiện tại các em được học tập và sinh sống ở khu vực thị trấn nhưng việc giao tiếp với bạn bè, với thầy cô giáo là rất hạn chế. Việc giao tiếp hạn chế đã làm cho các em ngày càng rụt rè, tự ti, ít nói, khả năng diễn đạt kém, ... Từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc học tập của các em.
 - Qua các năm công tác, tôi đã bắt gặp rất nhiều trường hợp các em HS giải quyết vấn đề trong cuộc sống thể hiện sự thiếu và yếu về KNS. Tôi xin nêu một số trường hợp điển hình như sau: Có em HS lớp 10, khi được GV quan tâm và tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình mình thì em ngượng ngùng không chia sẻ được; chỉ mới là HS lớp 10, có HS nữ bỏ học theo bạn trai đi chơi cả tuần và bị xâm hại; lại với một HS nữ lớp 10, vào học được một vài tuần đã đánh nhau với các chị lớp 11, lớp 12 và bị đuổi khỏi trường; một em HS lớp 11 nhận được quà sinh nhật và những lời chúc mừng sinh nhật từ bạn mình, GV gợi ý nói lời cảm ơn với bạn mình mà mãi không nói được; có em HS lớp 12 vẫn chưa đọc trơn được; có em HS lớp 12, chỉ vì chuyện tình cảm nam nữ không tốt thế là em đã quyết định tử tử; nhiều em HS lớp 12 không có định hướng nghề nghiệp cho bản thân nên khi làm hồ sơ thi, các em đã phải sửa và thay hồ sơ liên tục vì lập trường không vững vàng, ...
 Từ những vấn đề thực tiễn rất nhức nhối nêu trên, với vai trò là một GV trong nhà trường, với tinh thần trách nhiệm của một giáo viên chủ nhiệm (GVCN), tôi thấy mình cần phải thực hiện việc GD KNS cho các em HS lớp mình để các em có thể thích ứng với cuộc sống hiện đại tốt nhất. Vì vậy tôi đã quyết định chọn đề tài này. 
 2. Mục tiêu của đề tài
 - Đề tài ra đời nhằm GD cho các em HS các lớp 11A2, 11A5, 117 của trường 
THPT Nông Cống II có thêm được nhiều KNS cơ bản và cần thiết.
 - Đề tài được triển khai thực hiện để GD cho các em HS các KNS cơ bản như: KN giao tiếp và ứng xử, KN tự nhận thức, KN xác định giá trị, KN ra quyết định và giải quyết vấn đề, KN kiên định, KN ứng phó với căng thẳng, KN hợp tác, KN thương lượng, KN đạt mục tiêu, KN lắng nghe, KN lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân,...
 - Đề tài sẽ giúp các em HS hình thành và củng cố vững chắc một số KNS cần thiết đối với các em. Đến khi đó các em là những HS có được những KNS cơ bản và cần thiết thì điều tất yếu là kết quả học tập cũng sẽ được nâng lên. Các em có thể ứng phó tốt với các tình huống xảy ra trong cuộc sống luôn biến động. Đây cũng là nền tảng, là cơ sở để sau này các em có cuộc sống tốt hơn, các em sẽ trở thành những người có ích cho xã hội.
 3. Một số phương pháp GD KNS cho HS lớp chủ nhiệm
 Để GD KNS cho HS lớp chủ nhiệm đạt kết quả cao thì trước hết người GVCN
phải hiểu rõ một số khái niệm cơ bản sau:
 3.1. Các khái niệm
 3.1.1. Kỹ năng sống là gì?
 KNS chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả.
 Theo WHO “KNS là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lý xã hội. Năng lực tâm lý xã hội là khả năng ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khoẻ mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh.”
 Theo UNICEF, GD dựa trên KNS cơ bản là sự thay đổi  trong hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến  thức, thái độ và hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm gì) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, hay tin tưởng vào giá trị nào) thành hành động (làm gì và làm như thế nào).
	KNS chính là những KN tinh thần hay những KN tâm lý, xã hội giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống. KNS còn được xem như một biểu hiện quan trọng của năng lực tâm lý xã hội giúp cho cá nhân vững vàng trong cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại.
Tổng hợp các nghiên cứu của các nước và thực tế ở Việt Nam, người ta xác định rằng có 10 KNS căn bản và quan trọng hàng đầu cho con người trong thời đại mới gồm: KN học và tự học, KN lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân, KN tư duy sáng tạo và mạo hiểm, KN lập kế hoạch và tổ chức công việc, KN lắng nghe, KN thuyết trình, KN giao tiếp và ứng xử, KN giải quyết vấn đề, KN làm việc đồng đội, KN đàm phán.
 3.1.2. Giáo dục kỹ năng sống là gì?
 GD KNS là trang bị những kiến thức, thái độ, hành động giúp cho người học hình thành được những KNS cần thiết, phù hợp với từng lứa tuổi, điều kiện kinh tế - xã hội, môi trường sống,... GD KNS cho HS là việc làm rất quan trọng, ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển nhân cách của các em. GD KNS cần được tiến hành càng sớm càng tốt và có thể bắt đầu ngay từ bậc tiểu học, thậm chí còn có thể ở tuổi mầm non. Bởi vì lứa tuổi này những hành vi cá nhân, tính cách và nhân cách đang dần được hình thành. 
 3.2. Các phương pháp thực hiện
 3.2.1. Đưa nội dung GD KNS cho HS lớp chủ nhiệm vào giờ sinh hoạt lớp 
 3.2.1.1. Các kịch bản sinh hoạt lớp chủ nhiệm theo lối cũ
	 Hiện nay hầu như các GVCN thực hiện giờ sinh hoạt lớp vào cuối tuần với lớp chủ nhiệm thường theo kịch bản cũ, một trong các kịch bản đó là:
 3.2.1.1.1. Kịch bản 1:
 GVCN tổng kết hoạt động tuần qua, xem xét qua các lỗi vi phạm của HS, chấn chỉnh những sai phạm, khiển trách hay cảnh cáo những trường hợp sai phạm của HS.
 Sau đó là thông báo KH hoạt động trong tuần sắp tới, nhắc nhở và phân công HS thực hiện theo KH. GVCN còn làm nhiệm vụ “tài chính” (thu tiền học phí và các khoản thu khác) trong giờ sinh hoạt lớp. Ngoài ra GVCN kể hoặc đọc những câu chuyện mang tính GD cho cả lớp nghe và từ đó HS rút ra được những bài học cần thiết cho bản thân mình.
 3.2.1.1.2. Kịch bản 2: 
 GVCN giao cho lớp trưởng báo cáo tình hình tuần qua, báo cáo những trường hợp sai phạm cần nhắc nhở, chấn chỉnh và động viên các em. GVCN làm nhiệm vụ “tài chính” trong giờ sinh hoạt lớp. GVCN la mắng HS vi phạm một cách gay gắt.
 GVCN nhận xét qua loa rồi đọc thông báo chung cho cả lớp KH của nhà trường và của lớp. Sau đó, bí thư chi đoàn hoặc lớp phó văn thể tổ chức văn nghệ hoặc các nội dung sinh hoạt khác. Ngoài ra, GVCN kể hoặc đọc những câu chuyện mang tính GD cho cả lớp nghe và từ đó HS rút ra được những bài học cần thiết cho bản thân.
 Những kịch bản như trên chỉ thích hợp với các lớp HS ngoan, nhanh nhẹ , ít vi phạm nội quy trường lớp. Còn đối với các lớp thường xuyên có HS vi phạm thì giờ sinh hoạt lớp như vậy sẽ nhàm chán, nặng nề vì HS trong lớp cho rằng phải đối phó với những sai phạm trong tuần qua và tâm lý chung sẽ là mắc cỡ, e ngại, tự ti, ... Riêng với những em thường xuyên vi phạm thì tình hình còn có thể bi đát hơn: tâm lý bất cần sẽ nảy sinh, các em có thể trở nên lì hơn, “cứng đầu” hơn, khó bảo hơn, thậm trí là sẽ nghỉ học vào buổi sinh hoạt cuối tuần.
	 GVCN sẽ mất cảm hứng để GD KNS khi lớp có nhiều HS vi phạm. Thầy cô sẽ dễ dàng rơi vào trạng thái bực tức, nóng nảy và chắc chắn sẽ kéo dài thời gian rầy la cả lớp một cách không có chủ đích rõ ràng.
	 Chính vì vậy cần thay đổi kịch bản giờ sinh hoạt ở lớp chủ nhiệm sao cho tăng tính chủ động của HS nhiều hơn nữa, nâng cao vai trò của tập thể lớp chứ không phải vai trò của GVCN, của một lớp trưởng hay bí thư chi đoàn. Biến giờ sinh hoạt lớp thành một buổi chơi với nhiều trò chơi khác nhau mang đầy tính GD mà ý định lồng ghép GD KNS cho HS đã được GVCN chuẩn bị trước. Các trò chơi này phải được lựa chọn và có chủ đích nhằm GD KNS tương ứng cho HS.
 Việc đưa GD KNS vào giờ sinh hoạt lớp chủ yếu thông qua nội dung sinh hoạt sao cho tăng tính chủ động của HS trong lớp, phát huy năng lực của từng cá nhân. Nhấn mạnh vai trò của tập thể, để HS thấy được và từ đó luôn ý thức được tinh thần cũng như KN làm việc nhóm trong quá trình giải quyết các vấn đề chung. Chính vì vậy, tôi xin đưa ra các kịch bản sinh hoạt lớp mà tôi đã từng thực hiện với lớp chủ nhiệm trong quá trình tôi được nhận nhiệm vụ làm công tác chủ nhiệm như sau:
 3.2.1.2. Các kịch bản sinh hoạt lớp theo lối mới
 Trong kịch bản mới, lớp trưởng sơ kết tuần vừa qua. GVCN ghi nhận những HS có thành tích tốt trong tuần, nhắc nhở HS vi phạm và nhận xét chung, phổ biến KH của tuần tới. Sau đó là hoạt động tập thể theo chủ đề và kịch bản đã được GV chuẩn bị trước.
 3.2.1.2.1. Kịch bản 1: Tổ chức trò chơi
 * Những lưu ý khi tổ chức trò chơi cho các em HS lớp chủ nhiệm như sau:
 - Không nên sa đà vào việc tổ chức các trò chơi mang tính giải trí đơn thuần, sẽ làm sai lệch mục đích của việc lồng ghép nội dung GD KNS trong giờ sinh hoạt.
 - Khó khăn trong việc lồng ghép nội dung GD KNS vào giờ sinh  hoạt bằng cách 
tổ chức trò chơi và cách khắc phục:
 + Lớp ồn ào, gây ảnh hưởng lớp kế bên. Vì vậy BGH cần tổ chức tiến hành sinh hoạt đồng thời tất cả các lớp và hãy chấp nhận sự ồn ào có định hướng chứ không phải ồn ào mất trật tự.
 + Các trò chơi lặp đi lặp lại gây nhàm chán: GVCN phải chuẩn bị trước và tham khảo thêm các trò chơi cho phù hợp, thay đổi nội dung và phương thức sinh hoạt.
 * Trò chơi 1: Mong muốn, hi vọng, quan tâm
 - Yêu cầu: 
 + GV: Chuẩn bị một cái hộp không có nắp đậy (bằng giấy hoặc bằng nhựa hoặc bằng sắt) có kích thước (30cmx20cmx15cm), một tờ giấy A0 và một cây bút dạ.
 + HS: Tất cả các HS trong lớp tham gia, mỗi em lấy ra một mảnh giấy trắng và cầm bút chuẩn bị.
 - Luật chơi và cách tiến hành:
 + Các em HS làm việc độc lập, không nhìn và chép đáp án của nhau.
 + Trong vòng 3 phút, các em viết ra những mong muốn riêng của mình về một môn học hoặc một hoạt động nào đó, nói lên những điều mình hi vọng sẽ đạt được và cả những điều mà mình quan tâm đến.
 + GV yêu cầu lớp trưởng thu lại tất cả những mảnh giấy này để lẫn vào một cái hộp, sau đó yêu cầu mỗi HS chọn ra một mảnh giấy trong hộp và đọc lên những mong muốn, hi vọng, quan tâm cho HS cả lớp cùng nghe. 
 + GVCN chọn một HS lên dùng bút dạ viết ra những thông tin đó lên giấy A0 treo sẵn trên bảng.
 + GVCN tổng hợp lại những mong muốn, suy nghĩ, tâm tư và nguyện vọng của các HS. Từ đó GV đưa ra lời nhận xét về những điều mà các em đang cần và đang quan tâm, những mơ ước và hoài bão của các em HS.
 - Ý nghĩa của trò chơi:
 + HS được mạnh dạn nêu lên những suy nghĩ, mong muốn, hi vọng và quan tâm. 
 + HS xung phong lên bảng viết nội dung các mảnh giấy vào giấy A0 đã giúp em 
thêm phần mạnh dạn.
 + GVCN lắng nghe 

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_giao_duc_ky_nang_so.docx
  • docSihnh học - Le Văn Vĩnh - THPT Nông Cống 2 - Nông Cống.doc