Sáng kiến kinh nghiệm Một số kĩ năng rèn chữ viết cho học sinh lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Một số kĩ năng rèn chữ viết cho học sinh lớp 2

Đi học là một bước ngoặt lớn trong đời trẻ em. Những năm đầu tiên ở trường Tiểu học, trẻ cắp sách tới trường vô cùng bỡ ngỡ với việc chuyển hoạt động chủ đạo từ vui chơi sang học tập. Một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc, học viết, được vui chơi với bạn bè, . Trẻ em như trang giấy trắng tinh, Thầy cô giáo là người hướng dẫn các em đặt nét vẽ đầu tiên. Do đó, vấn đề rèn luyện chữ viết cho HS Tiểu học là vô cùng quan trọng và cấp thiết, bởi, chữ viết của HS sẽ đặt nền móng cơ bản cho toàn bộ quá trình học tập, rèn luyện cho HS những phẩm chất tốt như: tính kỉ luật, tính cẩn thận, óc thẩm mỹ và sáng tạo. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “ Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho HS viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy, cô và bạn đọc bài vở của mình .”

Ngoài ra, Tập viết còn là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở Tiểu học. Tập viết không những có quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập của các môn học khác mà còn góp phần rèn luyện một trong những kĩ năng hàng đầu của việc học Tiếng việt trong nhà trường đó là kĩ năng viết chữ. Nếu viết đúng, viết đẹp, tốc độ nhanh thì HS có điều kiện ghi chép bài học tốt, nhờ vậy, kết quả học tập sẽ cao hơn. Viết xấu, chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập.

Vậy, làm sao để HS viết thạo, để HS có kĩ năng viết chữ không chỉ viết đúng mà phải viết đẹp, viết nhanh? Đây có lẽ là câu hỏi biết bao Thầy cô giáo trăn trở, quan tâm và suy nghĩ. Chính vì vậy, năm học 2016- 2017, tôi đã chọn chủ đề SKKN “ Một số kĩ năng rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”.

 

doc 19 trang thuychi01 8874
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kĩ năng rèn chữ viết cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
I. MỞ ĐẦU
2
1. Lí do chọn đề tài SKKN
3
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
4
4
5
II. NỘI DUNG
6
1. Cơ sở lí luận
6
2. Thực trạng
6
3. Các giải pháp
9
4. Kết quả SKKN
16
III. KẾT LUẬN – KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
18
18
18
Chú giải:
SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm
HS: Học sinh
GV: Giáo viên
PPDH: Phương pháp dạy học
SHCM: Sinh hoạt chuyên môn
PP: Phương pháp
XBGD: Xuất bản giáo dục
VSCĐ: Vở sạch chữ đẹp
CNTT: Công nghệ thông tin
PGD: Phòng giáo dục
I. MỞ ĐẦU
Đi học là một bước ngoặt lớn trong đời trẻ em. Những năm đầu tiên ở trường Tiểu học, trẻ cắp sách tới trường vô cùng bỡ ngỡ với việc chuyển hoạt động chủ đạo từ vui chơi sang học tập. Một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc, học viết, được vui chơi với bạn bè, ... Trẻ em như trang giấy trắng tinh, Thầy cô giáo là người hướng dẫn các em đặt nét vẽ đầu tiên. Do đó, vấn đề rèn luyện chữ viết cho HS Tiểu học là vô cùng quan trọng và cấp thiết, bởi, chữ viết của HS sẽ đặt nền móng cơ bản cho toàn bộ quá trình học tập, rèn luyện cho HS những phẩm chất tốt như: tính kỉ luật, tính cẩn thận, óc thẩm mỹ và sáng tạo. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “ Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho HS viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy, cô và bạn đọc bài vở của mình ...”
Ngoài ra, Tập viết còn là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở Tiểu học. Tập viết không những có quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập của các môn học khác mà còn góp phần rèn luyện một trong những kĩ năng hàng đầu của việc học Tiếng việt trong nhà trường đó là kĩ năng viết chữ. Nếu viết đúng, viết đẹp, tốc độ nhanh thì HS có điều kiện ghi chép bài học tốt, nhờ vậy, kết quả học tập sẽ cao hơn. Viết xấu, chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập.
Vậy, làm sao để HS viết thạo, để HS có kĩ năng viết chữ không chỉ viết đúng mà phải viết đẹp, viết nhanh? Đây có lẽ là câu hỏi biết bao Thầy cô giáo trăn trở, quan tâm và suy nghĩ. Chính vì vậy, năm học 2016- 2017, tôi đã chọn chủ đề SKKN “ Một số kĩ năng rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”.
1/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI SKKN:
- Trẻ em đến trường là để được học đọc, học viết. Nếu phân môn tập đọc  học vần giúp trẻ biết đọc thông thì phân môn tập viết sẽ giúp trẻ viết thạo. Trẻ đọc thông, viết thạo phải ngày một, ngày hai mà có được. Mà đó là kết quả của một quá sẽ giúp trẻ tiếp thu bài nhanh hơn, học tốt hơn. Kết quả việc rèn chữ viết cho học sinh không trình dày công khổ luyện của cả thầy và trò, dưới sự dìu dắt, chăm sóc tận tình của các thầy giáo, cô giáo
Chúng ta đang ở trong một thời đại mới, thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thời đại thông tin bùng nổ, mọi người thường ngồi với chiếc máy vi tính của mình để soạn thảo một văn bản thay vì cầm bút viết trên giấy. Việc rèn chữ viết của mọi người bị chìm vào quên lãng. Hiện nay học sinh lựa chọn đủ các loại bút để viết, đặc biệt là học sinh rất yêu thích với chiếc bút kim của mình hơn là những loại bút chấm mực như ngày xưa. Mặt khác, chữ viết của khá nhiều giáo viên chưa đúng quy định cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc rèn chữ viết của học sinh. Đặc biệt là một giáo viên tiểu học, qua một số năm giảng dạy tôi thấy chữ viết của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn tới chữ viết của học sinh vì học sinh tiểu học rất hay bắt chước và chúng thường xuyên xem thầy cô giáo của mình là tấm gương để noi theo. Chữ viết của học sinh có quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập ở các môn học khác. Nếu viết đúng mẫu, rõ ràng, tốc độ nhanh thì học sinh có điều kiện ghi chép bài tốt, nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn. Vì vậy, rèn chữ đẹp là việc cần thiết đối với giáo viên.
Chữ viết đẹp của HS là vấn đề được mọi người trong và ngoài ngành Giáo dục quan tâm. Người xưa từng nói: “ Nét chữ- Nết người”- đã hàm ý về hai vấn đề. Thứ nhất nét chữ thể hiện tính cách con người; thứ hai thông qua việc rèn luyện chữ viết mà giáo dục nhân cách con người. Vì vậy, phong trào “Vở sạch- Chữ đẹp” vừa là mục đích vừa là phương tiện trong quá trình rèn luyện học sinh viết đúng, viết đẹp
Mặt khác, quan sát thực tế của các lớp trong trường Tiểu học Đông Thọ trong năm học 2016 - 2017, bản thân tôi nhận thấy: chỉ tiêu một số lớp đạt “Vở sạch- chữ đẹp” chưa cao, cụ thể như một số lớp vẫn còn tồn tại hiện tượng HS viết chưa đúng độ cao, độ rộng của từng con chữ; khoảng cách giữa các chữ chưa đều, thế chữ chưa ổn định, ... 
Việc rèn chữ viết cho học sinh còn là môi trường quan trọng bồi dưỡng cho trẻ những phẩm chất tốt như: tính cẩn thận, tinh thần kỷ luật và óc thẩm mỹ. Nhưng muốn viết thạo trẻ phải gắng công khổ luyện dưới sự dìu dắt tận tình của các thầy giáo, cô giáo.
Trong trường tiểu học, việc dạy tập viết được phối hợp nhịp nhàng với dạy học vần, chính tả, tập làm văn, việc ghi bài vào vở các môn học, vở luyện viết chữ đẹp của học sinh.
Dạy tập viết không chỉ truyền thụ cho học sinh những kiến thức cơ bản về chữ viết mà còn rèn kỹ thuật viết chữ. Trong các tiết tập viết, học sinh nắm bắt được các tri thức cơ bản về cấu tạo các chữ cái tiếng Việt được thể hiện trên bảng cài, bảng lớp, bảng con, trong vở tập viết và vở ghi bài các môn học khác Đồng thời, học sinh được giáo viên hướng dẫn các yêu cầu kỹ thuật viết từng nét chữ để hình thành nên một chữ cái rồi đến tiếng, từ, cụm từ và cả câu.
Ở giai đoạn đầu, trọng tâm của việc dạy tập viết là dạy viết chữ cái và kết nối các chữ cái lại để ghi tiếng.
Ở giai đoạn cuối, song song với việc rèn viết chữ hoa, học sinh còn được rèn viết văn bản, có thể là: nhìn một đoạn văn, đoạn thơ chép lại cho đúng (tập chép) hoặc nghe giáo viên đọc mẫu, học sinh viết bài vào vở (nghe viết) hoặc nhớ để viết lại (nhớ viết).
       - Đầu năm vào nhận lớp 2E tôi cũng rất băn khoăn nhiều em viết chữ rất xấu, viết chưa đúng mẫu nhất là các nét khuyết. (Tỉ lệ khảo sát đầu năm: Loại A: 22 HS; Loại B: 18 HS; Loại C: 5 HS). Từ đó tôi mới nảy ra ý tưởng: Phải tìm một số biện pháp, một số việc làm để giúp cho các em hứng thú trong giờ học tập viết, trong các tiết học chính tả. Giáo viên phải tỉ mẫn hơn. Cho nên tôi đã có kế hoạch từ đầu năm, chọn ra các đối tượng để rèn. Cứ một tháng tôi kèm cho 5 em, nếu 5 em đó viết chưa được, tháng kế tiếp tôi lại kèm tiếp, cho đến lúc nào các em đó viết đúng . 
Thật vậy, nhìn trang vở của học sinh với những dòng chữ đều tăm tắp, sạch sẽ thì cả cha mẹ và thầy cô đều dấy lên một niềm vui. Chúng ta như đặt niềm tin vào tương lai con trẻ.
Những lí do nêu trên chính là một trong những nguyên nhân thúc đẩy tôi viết SKKN với chủ đề “Một số kĩ năng rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”.
2/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
- Tìm hiểu bản chất của các nguyên nhân dẫn đến tình trạng HS viết xấu, viết sai và chậm.
- Tìm hiểu tâm sinh lí lứa tuổi học sinh lớp 2.
- Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy Tập viết ở tiểu học đặc biệt đi sâu vào nội dung dạy và học các bài Tập viết lớp 2
 - Qua đề tài này, tôi muốn góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Tập viết đưa ra các giải pháp, biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của GV học sinh lớp 2, HS sẽ viết đẹp hơn, đặc biệt nắm được quy trình, cách viết chữ hoa tốt hơn. 
3/ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
- Nghiên cứu tài liệu Phương pháp dạy học tập viết ở trường Tiểu học của tác giả Lê A- Đỗ Xuân Thảo- Trịnh Đức Minh.
- Nghiên cứu vở Tập viết của học sinh lớp 2.
- Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến PPDH tập viết ở trường tiểu học. Nghiên cứu các mẫu chữ dùng trong nhà trường tiểu học từ năm học 1981- 1982; năm học 2016- 2017
- Nghiên cứu tạp chí Thế giới trong ta chuyên đề giáo dục, chuyên đề Giáo dục tiểu học của Vụ giáo dục Tiểu học.
 - Tìm hiểu thực trạng quá trình giảng dạy môn tập viết ở trường tiểu học.
- Theo dõi quá trình thực nghiệm để kiểm nghiệm các giải pháp đề ra.
- Học sinh lớp 2E trường Tiểu học Đông Thọ
4/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp, báo cáo.
II. NỘI DUNG 
1/ CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SKKN: 
Trong những năm học gần đây chữ viết của học sinh trong các nhà trường tiểu học là vấn đề các cấp lãnh đạo, các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh học sinh hết sức quan tâm. Các phong trào "Giữ vở sạch, viết chữ đẹp" của giáo viên và học sinh được duy trì thường xuyên theo định kỳ hàng năm và phát triển sâu rộng trong phạm vi toàn ngành. Song vì nhiều lý do mà chất lượng chữ viết của học sinh chưa tốt. Bên cạnh học sinh viết chữ đẹp. Còn khá phổ biến học sinh viết chữ xấu, nét chữ nguệch ngoạc, không đúng mẫu, cỡ chữ qui định. Cá biệt còn có em mắc nhiều lỗi chính tả. Vì vậy có em nhận thức rất nhanh nhưng lại không đạt danh hiệu học sinh giỏi cũng chỉ vì chữ viết xấu. Trẻ em đến tuổi học, thường bắt đầu quá trình học tập bằng việc học chữ. Ở giai đoạn đầu tiên (bậc tiểu học) trẻ tiếp tục được hoàn thiện năng lực nói tiếng mẹ đẻ. Nhà trường xuất phát từ dạng thức nói, từ hệ thống ngữ âm tiếng mẹ đẻ để dạy trẻ học chữ. Trẻ em biết chữ mới có phương tiện để học Tiếng Việt và học các môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội khác. Trẻ không biết chữ, không có điều kiện tiếp xúc ngôn ngữ văn hoá, không thể tiếp thu tri thức văn hoá, khoa học một cách bình thường được. Biết chữ là biết phân biệt hình nét các ký hiệu, biết tạo ra ký hiệu (chữ viết), biết dùng chữ ghi lời nói, biết đọc và hiểu được ý nghiã chữ viết. Nói tóm lại, biết chữ là biết đọc thông viết thạo một ngôn ngữ.
	Chữ viết Tiếng việt của chúng ta hiện nay (còn là chữ Quốc ngữ) được xây dựng dựa theo các con chữ của hệ thống chữ cái La tinh gồm 24 chữ cái (hay còn gọi là con chữ) được sắp xếp theo trật tự cố định gọi là Bảng chữ cái. Các chữ cái Tiếng Việt dùng để nghi nguyên âm và phụ âm.
	Trên thực tế, các chữ cái Tiếng Việt thoả mãn tương đối các điều kiện trên. Nhưng có những âm biểu thị bằng nhiều chữ cái do đó học sinh rất dễ nhầm lẫn, khó phân biệt.
Đối với HS lớp 2, để có sự thành công trong giờ Tập viết, người GV phải hiểu được các yếu tố cảm xúc, tâm lí chi phối việc viết chữ của HS. Mỗi chữ viết đối với các em là một phát minh. Quá trình lĩnh hội và thể hiện chữ viết ở các em sẽ diễn ra rất nhanh nếu viết với tâm lí vui vẻ, phấn chấn. Giờ Tập viết phải đảm bảo đúng qui định được xây dựng trên cơ sở khoa học. Bởi quá trình tập viết của trẻ lớp Một có quan hệ đến nhiều bộ phận trong cơ thể của các em. Tư thế ngồi viết có quan hệ đến cột sống, đến phổi, đến lưng, ... cách cầm bút có quan hệ đến các ngón tay, bàn tay và cánh tay. Hình dáng kích thước chữ trong vở Tập viết có quan hệ đến mắt các em ... 
2/ THỰC TRẠNG:
2.1. Thuận lợi:
- Đa số HS trong lớp rất thích đến trường để học, ham học, ham viết, say sưa trong giờ Tập viết. Cụ thể: Ngọc Diệp, Ngọc Hương, Thiên Hương, NGọc Minh, Văn Thành, Quốc Khánh, Linh Chi, Thùy Chi, Thanh Hiền, Phương Linh, Thanh Tâm.
- Phần đông Phụ huynh cũng rất quan tâm đến việc học tập của con em mình. Đặc biệt chi hội PH luôn chú trọng đến việc học cũng như rèn chữ viết cho HS. Hàng tháng đều có phần thưởng động viên khích lệ những HS đạt điểm cao trong các bài viết chữ đẹp.
- Môi trường giao tiếp, bố mẹ, thầy cô giáo, phương tiện thông tin đại chúng ... đều biết Tiếng việt.
- Ngành GD, Nhà trường, GVCN đều quan tâm đến chữ viết của HS: Nhà trường tổ chức thi Viết chữ đẹp 2 lần/ năm học; GVCN tổ chức thi Viết chữ đẹp vào cuối tháng.
- Nhà trường đã đầu tư cơ sở vật chất: ánh sáng (số lượng bóng điện đủ để chiếu sáng), bảng chữ mẫu (với nhiều kiểu chữ mẫu khác nhau), hệ thống bảng phụ, máy chiếu (100% các lớp được trang bị máy chiếu) ...
- GV được trang bị bộ chữ dạy Tập viết.
- GV được tham dự chuyên đề Tập viết theo tổ, khối trong các buổi SHCM để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm và trau dồi kiến thức (Chuyên đề Tập viết được tổ chức 2 lần/ năm)
- Hàng tuần HS đều có thêm một tiết học dành cho luyện viết vào buổi học thứ hai. Cụ thể vào chiều thứ ba hàng tuần
- Nội dung các bài Tập viết rõ ràng, phù hợp và cụ thể. Đặc biệt, HS còn được luyện thêm về cách viết chữ nghiêng.
2.2. Khó khăn:
a/ Về phía GV:
- Còn tồn tại một bộ phận nhỏ GV chưa hiểu rõ bản chất của các nguyên tắc và PPDH Tập viết, thường có quan niệm xem nhẹ giờ dạy viết, luôn coi đó là một phân môn phụ. 
- GV chưa hiểu rõ được vai trò, tác dụng của một số phương tiện trực quan trong giờ dạy Tập viết như bảng con, chữ mẫu, ...
 - Chưa có sự thống nhất về các kiểu chữ, mẫu chữ, tên gọi của các nét, của con chữ, ... VD: Đưa quá nhiều tên gọi cho một nét - Nét “ ’’ được GV gọi với nhiều tên: nét khuyết trên, nét khuyết phải, nét bụng trên, ... Nhầm lẫn khi đổi tên chữ cái, lúng túng khi sử dụng thuật ngữ để hướng dẫn học sinh.
 - Chưa coi trọng phương pháp làm gương, vẫn còn giáo viên viết chưa đẹp, viết bảng các môn học khác còn cẩu thả, không đúng mẫu.
 - Khi dạy Tập viết, GV chưa có sự phối hợp đồng bộ trên các môn học khác. Bản thân GV nghĩ rằng để HS viết đẹp chỉ cần chú ý dạy tốt giờ Tập viết và chỉ cần HS viết đúng, đẹp, trình bày sạch sẽ các bài viết trong vở Tập viết là đạt yêu cầu. GV chưa phát huy được tác dụng luyện chữ của HS ở các môn học khác. 
- Một số GV chưa có sự phối hợp chặt chẽ với gia đình HS trong lớp chủ nhiệm, điều đó hạn chế việc tạo điều kiện về tinh thần, vật chất cho HS học tập và rèn luyện chữ viết trong phong trào “Vở sạch - Chữ đẹp ’’
- Đa số GV trong giờ dạy Tập viết chỉ chú ý đến kết quả, chất lượng chữ viết của HS, coi nhẹ việc hình thành nề nếp học của HS trong giờ Tập viết. Chưa chú ý đến tư thế ngồi viết của HS. Hiện nay, phần đông HS ngồi chưa đúng tư thế, cách cầm bút sai, vị trí đặt vở không đúng, ...
b/ Về phía HS:
 - Vẫn tồn tại một số HS thiếu tính kiên trì, ham chơi, nhiều em còn cẩu thả, ý thức luyện chữ chưa cao: Tuấn Anh, Bích Ngân, Châu Anh
 - Kỹ năng viết chưa thành thạo, tốc độ còn chậm, chưa thực sự tập trung khi viết, bài viết hay gạch xoá: Anh Dũng, Anh Khoa, Bảo Nam, Đồng Khoa
 - Một số em ngọng, nói tiếng địa phương, ... ảnh hưởng khi viết hay sai lỗi chính tả: Lê Châu Anh, Thúy Hằng, Trịnh Tuấn Anh
 - Chưa được sự quan tâm của gia đình. Bố mẹ mải lo làm ăn nên phó thác hết trách nhiệm cho giáo viên chủ nhiệm. Không thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở việc học tập của các em, không quan tâm đến sách vở, đồ dùng học tập của các em. Nhiều khi đến lớp các em không có bút để viết do quên hay bút hết mực, hỏng ngòi,...đã ảnh hưởng đến việc viết chữ rất nhiều,...
- Các em chưa xác định đúng khoảng cách dòng kẻ, viết không đúng mẫu chữ: chưa xác định được điểm đặt bút, dừng bút khi viết chữ; chưa xác định được khoảng cách các con chữ hoặc các chữ trong một từ; các em viết sai về độ cao, thế chữ; chưa biết viết nối các con chữ (ch, th, ph, ng, ngh, gh, ...). Tóm lại, trình độ kiến thức ban đầu của các em không đồng đều.
- Một số HS chưa thực hiện tốt, nghiêm túc các qui trình viết trong giờ Tập viết:
+ Tư thế ngồi. 
+ Cách cầm bút. 
+ Vị trí đặt vở khi viết chữ.
- Mặt khác, ở lớp 1 HS viết lượng chữ trong từng bài còn ít, lên lớp 2 HS làm quen với nhiều môn học, các em phải viết nhiều hơn, gây mỏi tay, mỏi mắt, ... dẫn đến tình trạng nản chí, ngại viết.
- Phụ huynh chưa nắm được mẫu, qui trình viết của chữ mới nên hạn chế trong việc hướng dẫn, rèn luyện con mình viết ở nhà.
- Sĩ số HS trong lớp đông (45HS/ Lớp)
c/ Về cơ sở vật chất:
- Nhà trường có đủ các phòng học cho học sinh học hai buổi trên ngày. Tuy nhiên một số phòng học chưa bảo đảm về tiêu chuẩn như: Ánh sáng trong phòng học, bàn ghế của học sinh, bảng lớp...
- Ánh sáng trong phòng học chưa đảm bảo nhất là về mùa đông khi thời tiết lạnh các cửa đều phải đóng để tránh gió lùa vào nên phải sử dụng nguồn ánh sáng nhân tạo. 
- Bàn ghế của học sinh tuy đầy đủ về số lượng song ở một số lớp vẫn tồn tại một số bộ bàn ghế chưa phù hợp học sinh (vì trong lớp một số HS bé , lớn hơn so với lứa tuổi) nên mỗi khi viết lại phải nhoài người hoặc phải đứng lên thì mới viết được cho nên ảnh hưởng đến chữ viết và tốc độ viết. Mặt khác, mặt bàn bằng phẳng không có độ nghiêng, dốc về phía học sinh nên khi viết các em không thấy thoải mái và tay khó di chuyển.
- Bảng lớp: Các lớp được trang bị một bảng chống loá to, sơn mầu xanh thẫm và được treo cân đối, hợp lý giúp học sinh quan sát dễ dàng. Nhưng bảng lại có các dòng kẻ không phù hợp với giờ Tập viết, thậm chí có những dòng kẻ bị mờ nên khi viết mẫu cho học sinh giáo viên còn gặp nhiều khó khăn như viết các nét không chuẩn, không nhìn rõ dòng kẻ để viết, không phân tích cụ thể từng nét trong mỗi con chữ. 
3/ CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
Để phát huy thuận lợi và khắc phục những khó khăn, tồn tại nêu trên, qua những năm dạy học lớp một, qua quá trình học hỏi kinh nghiệm của các đồng chí GV trong trường, trong TP; tham khảo ý kiến của Ban giám hiệu, bản thân tôi đã rút ra “ Một số kĩ năng rèn chữ viết cho học sinh lớp 2” như sau: 
	3.1. Rèn tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở.
 Khi ngồi viết, học sinh phải ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực vào canh bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách mặt vở từ 23 cm đến 30 cm. Cánh tay phải cũng ở trên mặt bàn bên trái vở, bàn tay trái tì vào mép vở giữ vở không xê dịch khi viết. Cánh tay phải cũng ở trên mặt bàn. Với cách để tay như vậy, khi viết, bàn tay và cánh tay phải có thể dịch chuyển thuận lợi từ trái sang phải dễ dàng.
 Khi viết, học sinh cầm bút và điều khiển bút viết bằng ba ngón tay ( ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa) của bàn tay phải. Đầu ngón tay trỏ đặt ở bên trái của đầu bút dịch chuyển linh hoạt. Ngoài ra động tác viết cần có sự phối hợp cử động của cổ tay, khuỷu tay và cánh tay.
 Khi viết chữ, vở viết cần đặt so với mép bàn một góc khoảng 30 độ (nghiêng về bên phải). Sở dĩ phải đặt như vậy vì chiều thuận của vận động tay khi viết chữ Việt là vận động từ trái sang phải.
	3.2. Củng cố các nét cơ bản tạo nên chữ viết thường.
	 Để viết đúng mẫu, đảm bảo không gây nhầm lẫn các chữ cái với nhau, học sinh phải nắm được hệ thống nét cấu tạo chữ cái La tinh nghi âm Tiếng Việt. Đây là cơ sở để viết nhanh, nâng cao tính thẩm mỹ của chữ viết.
	a, Các nét thẳng:
	+ Thẳng đứng ( | ) : Nét có trong các chữ p, q...
	+ Nét ngang ( ) Nét có trong các chữ đ, t...
	+ Nét xiên: Xiên phải ( / ), xiên trái ( \ )
	+ Nét hất ( / ) : Nét có trong các chữ : i, u, ư...
	 b. Các nét cong.
	+ Nét cong kín (hình bầu dục đứng O): Nét có trong các chữ o, ô, ơ, a,...
	+ Nét cong hở: Cong phải ( ), cong trái ( C )...Nét có trong các chữ x, c.
	c, Các nét móc:	
	+ Nét móc ngược (móc phải) ( ) ... Nét có trong các chữ như: a, ă, i, u,...
	+ Nét móc xuôi (móc trái) ( ): Nét có trong các chữ: m, n, v.
	+ Nét móc hai đầu có thắt ở giữa ( ): Nét có trong chữ k.
	d, Nét khuyết.
	+ Nét khuyết dưới ( ) : Nét có trong các chữ: y, g.
	+ Nét khuyết trên ( ): Nét có trong các chữ: b, h, k, l.
	e, Nét thắt ( ) : Nét có trong các chữ: b, r, s, v.
	Ngoài ra còn một số nét bổ sung: Nét chấm (trong chữ i). Nét gãy (trong dấu phụ của chữ ă, â ), dấu hỏi ( ), dấu ngã ( )
	3. 3. Luyện viết đúng kích thước và cỡ chữ (đúng mẫu).
	Kích thước và cỡ chữ được lấy dòng kẻ trên giấy làm đơn vị đo độ cao hoặc độ dài của một chữ (mỗi đơn vị đo độ cao tương ứng với khoảng cách giữa hai dòng kẻ).
	Kích thước của chữ viết thường được chia thành năm nhóm.
	+ Nhóm chữ có độ cao một đơn vị: a, ă, â, c, e, ê, i, m, n, o, ô, ơ, ư, v, x.
	+ Nhóm chữ có độ cao 1,25 đơn vị: r, s.
	+ Nhóm chữ có độ cao 1,5 đơn vị: t.
	+ Nhóm chữ có độ cao 2 đơn vị: d, đ, p, q.
	+ Nhóm chữ có độ cao 2,5 đơn vị: g, h, l, k, b, y.
	3. 4. Luyện viết các chữ cái theo nhóm.
	a, Chữ cái viết hoa:
	b, Chữ cái viết thường. 
	+ Nhóm chữ cái có cấu tạo từ nét cong là cơ bản. c, o, ô, ơ, e, ê, x.
	+ Nhóm chữ cái có cấu tạo nét cong phối hợp với nét móc: a, ă, â, d, đ, q.
	+ Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc: i, u, ư, n, m, p.
	+ Nhóm các chữ cái có chữ cơ bản lã nét khuyết: b, h, l, k, g, y.	
	+ Nhóm chữ cái có nét móc phối hợp với nét cong : r, v, s,.
	3. 5. Luyện viết liền mạch.
	Khi viết một chữ cái gồm từ hai c

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_ki_nang_ren_chu_viet_cho_hoc_si.doc