Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn luyện chữ viết cho học sinh lớp 2
- Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu học đối với học sinh lớp 2. Nó góp phần rèn luyện kỹ năng viết chữ- một trong những kỹ năng hàng đầu trong việc học tiếng Việt trong trường.
- Mặt khác chữ viết cũng là biểu hiện nét nhân cách của con người.
- Cố vấn Phạm Văn Đồng đã nói:“Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp cũng góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình và bạn đọc bài vở của mình”
-Theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học,Tiếng Việt rất cần phải tạo điều kiện cho học sinh tự giác luyện tập và rút kinh nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Việc rèn luyện kỹ năng viết nhanh, đẹp cho học sinh sẽ góp phần đáp ứng được yêu cầu này.
-Trường Tiểu học Cát Tân nằm trên địa bàn dân cư có mặt bằng dân trí thấp ,thuộc vùng đặc biệt khó khăn.Chưa thật sự có đủ điều kiện cho học sinh học tập.Nhiều phụ huynh do chưa thực sự quan tâm nên một số học sinh chữ viết xấu,chưa đúng mẫu,chưa sạch đẹp.
Từ những vấn đề thực tế trên, tôi chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết cho học sinh lớp 2”
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NHƯ XUÂN TRƯỜNG TIỂU HỌC CÁT TÂN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN CHỮ VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 2” Người thực hiện:Dương Thị Liên Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Cát Tân SKKN thuộc lĩnh vực môn: Tiếng Việt NHƯ XUÂN NĂM 2016 MỤC LỤC: STT Tên đề tài Trang I 1 2 3 4 II 1 2 3 4 III Phần mở đầu Lý do chon đề tài Mục đích nghiên cúu Đối tượng nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Phần nội dung Cơ sở lý luận Thực trạng của vấn đề Các giải pháp Hiệu quả Phần kết luận , kiến nghị 1 1 2 2 2 2 3 4 11 11 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài : - Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu học đối với học sinh lớp 2. Nó góp phần rèn luyện kỹ năng viết chữ- một trong những kỹ năng hàng đầu trong việc học tiếng Việt trong trường. - Mặt khác chữ viết cũng là biểu hiện nét nhân cách của con người. - Cố vấn Phạm Văn Đồng đã nói:“Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp cũng góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình và bạn đọc bài vở của mình” -Theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học,Tiếng Việt rất cần phải tạo điều kiện cho học sinh tự giác luyện tập và rút kinh nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Việc rèn luyện kỹ năng viết nhanh, đẹp cho học sinh sẽ góp phần đáp ứng được yêu cầu này. -Trường Tiểu học Cát Tân nằm trên địa bàn dân cư có mặt bằng dân trí thấp ,thuộc vùng đặc biệt khó khăn.Chưa thật sự có đủ điều kiện cho học sinh học tập.Nhiều phụ huynh do chưa thực sự quan tâm nên một số học sinh chữ viết xấu,chưa đúng mẫu,chưa sạch đẹp. Từ những vấn đề thực tế trên, tôi chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết cho học sinh lớp 2” 2. Mục đích nghiên cứu: Tìm ra một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp trong phân môn tập viết nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 2C.Rèn cho học sinh tư thế ngồi viết đúng, chữ viết đẹp, sạch,thói quen cẩn thận tốc độ nhanh khi viết,trau dồi ngôn ngữ nói, viết. 3. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 2C -Trường Tiểu học Cát Tân 4. Phương pháp : - Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Phương pháp điều tra - Phương pháp thực nghiệm. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận của việc rèn luyện kỹ năng viết đúng, đẹp cho học sinh lớp2: Chữ viết là một công cụ dùng để giao tiếp và trao đổi thông tin, là phương tiện để ghi chép và tiếp nhận những tri thức văn hóa, khoa học và đời sống ,Do vậy, ở trường tiểu học việc dạy học sinh biết chữ và từng bước làm chủ công cụ chữ viết để phục vụ cho học tập và giao tiếp là yêu cầu quan trọng hàng đầu của môn Tiếng Việt. - So với chương trình lớp 1, nội dung của phân môn tập viết lớp 2 có những yêu cầu cụ thể. -Tiếp tục rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết các chữ thường theo cỡ nhỏ đã học ở lớp 1 nhưng mức độ yêu cầu được nâng cao: viết đúng mẫu và đều nét. - Chính thức dạy học sinh viết chữ hoa theo cỡ vừa và nhỏ (Ở lớp 1 học sinh mới làm quen với chữ hoa qua hình thức tập tô trong giai đoạn luyện tập tổng hợp ở học kỳ 2). Để thực hiện nhiệm vụ này, giáo viên phải giúp học sinh có những hiểu biết nhất định về mẫu chữ hoa do Bộ mới ban hành nhằm tạo điều kiện cho các em rèn kỹ năng viết chữ cụ thể: - Nhớ được hình dáng các chữ cái viết hoa theo mẫu quy định - Nắm được kích cỡ của từng chữ cái viết hoa (thể hiện trong khung chữ, trong mối quan hệ giữa chữ cái viết thường). VD: Trong cùng cỡ chữ, các chữ cái viết hoa: A, B, C có độ cao bằng các chữ cái viết thường: b g, h, k, l, y, riêng hai chữ cái viết hoa được viết với chiều cao 4 li Y, G. - Nắm được thao tác viết từng nét chữ để tạo nên chữ cái viết hoa (đưa nét theo đúng quy trình viết ). * Dạy học sinh biết nối (ghép) chữ cái viết hoa với chữ cái thường trong một chữ ghi tiếng đảm bảo tính thẩm mỹ, phục vụ cho yêu cầu viết chính tả và trình bày bài. 2. Thực trạng : Trường Tiểu học Cát Tân nằm trên địa bàn dân cư ít, có mặt bằng dân trí thấp ,thuộc vùng đặc biệt khó khăn. Điều kiện về cơ sở vật chất cho các em học tập còn hạn chế, đường xá đi lại khó khăn vất vả.Học sinh lớp 2C chưa có đủ đồ dùng học tập. Trong trường tiểu học việc dạy học sinh lớp 2 viết chữ là một công việc hết sức khó khăn chiếm nhiều thời gian và công sức của người giáo viên. Muốn học sinh tiểu học viết đúng mẫu chữ, cỡ chữ tiến tới viết nhanh viết đẹp người giáo viên phải uốn nắn từng li từng tí, phải tỉ mỉ chỉ bảo cho các em. Chính vì vậy nhiều giáo viên rất “ngại” khi rèn sửa cho các em. * Về phía học sinh: Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi sự tập trung chú ý của học sinh lớp 1, 2 còn yếu thiếu bền vững. Các em mau quên lại chóng chán. Chính vì vậy một số không ít học sinh còn có thái độ tiêu cực:lười biếng, cẩu thả khi viết. - Năm học 2015-2016 tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp 2C. Sau khi làm quen với lớp, tôi nhận thấy : - Nhiều học sinh ngồi sai tư thế khi viết, lưng không thẳng, mắt dí sát vào vở như các em Hạnh, Hà, Chuyền, Chuyên, Huệ Văn...cả em cầm bút bằng 5 ngón tay như Quyên , Bình, Sự ... - Tốc độ viết rất chậm như:Sự, Chuyên, Hùng, Hoàng, QuânB... - Chữ viết chưa đạt yêu cầu thể hiện ở một số điểm: + Chưa đúng hình dáng, cấu tạo chữ cái. + Không viết đúng quy trình viết chữ cái (điểm đặt bút chưa đúng ). + Không viết đúng độ cao các con chữ. + Chưa có kĩ năng viết liền mạch, liên kết chữ cái tạo chữ ghi tiếng. + Vị trí dấu thanh sai. * Phân loại theo VSCĐ : Sĩ số Loại A Loại B Loại C SL % SL % SL % 17 4 23,5 7 41,2 6 35,3 3. Các biện pháp giải quyết vấn đề : Với kết quả như trên tôi đã suy nghĩ để tìm ra các biện pháp để rèn chữ viết cho học sinh như sau: Biện pháp1: Phân loại chữ viết của học sinh theo các mức độ Ngay từ đầu năm học tôi đã cho kiểm tra chữ viết của các em. Tôi xem xét kỹ để phân loại chữ viết của học sinh theo các mức độ khác nhau. Từ đó tôi lên kế hoạch để sửa “tật”cho từng em. VD: Những em có điểm đặt bút chưa đúng tôi chỉ bảo cho các em cách tính dòng kẻ, xác định điểm đặt bút Những em viết chưa thẳng tôi có kế hoạch cho luyện nét sổ thẳng, chữ chưa tròn tập viết nét cong tròn - Nhờ vậy các em đã nhớ lại được quy trình viết từng con chữ, biết luyện dần từng chữ. Dần dần kết quả đã tốt hơn rất nhiều . Biện pháp 2: Rèn tư thế viết đúng cho học sinh. Tôi nhận thấy khi học sinh ngồi viết đúng tư thế sẽ là điều kiện thuận lợi cho các em viết đúng, viết đẹp. Mặt khác việc làm đó cũng góp phần để phòng học sinh mắc bệnh cận thị khi căn bệnh này ngày một gia tăng trong nhà trường phổ thông hiện nay. Tôi đã hướng dẫn các em như sau: * Tư thế ngồi viết: Ngồi ngay ngắn, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách vở từ 25cm – 30cm. Cánh tay trái đặt trên mặt bàn bên trái vở, bàn tay trái tì vào mép vở giữ vở không xê dịch khi viết. Cánh tay phải để ở trên mặt bàn - Cách cầm bút: Khi viết học sinh cầm bút và điều khiển bút bằng ba ngón tay (ngón trỏ, ngón cái và ngón giữa của bàn tay phải). Đầu ngón trỏ đặt ở phía trên, đầu ngón cái giữ bên trái, phía bên phải của đầu bút tựa vào cạnh đốt đầu ngón tay giữa. * Vị trí đặt vở: Vở đặt nghiêng so với mép bàn một góc khoảng 30 độ nghiêng về phía bên phải. - Để học sinh có kĩ năng trên, tôi đã làm một số công việc sau: - Treo tranh mẫu tư thế ngồi viết và cách cầm bút trong phòng học ở lớp, đồng thời thu nhỏ các hình ảnh này trên một trang giấy, phát cho từng học sinh kẹp trong vở tập viết của mình để đánh dấu trang cần viết và luôn quan sát được khi viết - Luôn nhắc nhở và uốn nắn tư thế viết ở tất cả giờ học chú trọng đặc biệt trong giờ tập viết. - Trao đổi cha mẹ học sinh về việc kiểm tra nhắc nhở con em khi tập viết ở nhà ngay trong buổi họp CMHS biết để uốn nắn ở nhà. Ngoài việc rèn tư thế tập viết đúng tôi còn chú trọng việc phân loại các lỗi sai của học sinh trong quá trình viết để có thể rèn cho các em. Biện pháp 3: Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học, phương tiện dạy học. * Đồ dùng học tập của học sinh: loại bút và mực thích hợp đến cách chọn vở, chọn bảng và phấn viết cũng được tôi lưu tâm đến. Hướng dẫn học sinh, phụ huynh tìm mua cho các em những quyển vở có đường kẻ tin đều, rõ ràng và khi viết không bị nhoè mực. Được sự ủng hộ từ phía nhà trường, có vở của nhà trường được sản xuất với chất lượng cao, giấy không bị thấm mực. Đối với vở tập viết có nhãn vở, có tờ lót tay khi viết để thấm mồ hôi ở tay ra giấy trong mùa hè, mùa thu. Thực tế dạy viết hiện nay cho thấy sử dụng bảng con trong việc rèn chữ cho học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 1 vẫn là tối ưu nhất. Có nhiều học sinh được bố mẹ mua cho bảng làm chất liệu mêca màu trắng, dùng bút dạ viết bảng. Dùng loại bảng và bút này có nhiều hạn chế: bảng trơn, học sinh viết không chủ động, mực ra đậm nhạt không đều, khi xoá dễ gây bẩn, mất vệ sinh. Hơn nữa, do bút to quá cỡ tay cầm bút của học sinh khiến các em khó điều khiển ngòi bút khi viết chữ. Cho nên trong buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đưa ra những quyển vở, bút chì, bút mực để phụ huynh tham khảo. Riêng bảng con thì tôi thống nhất toàn lớp để tránh tình trạng của em này thì có ô to, bảng của em kia thì có ô nhỏ sẽ gây khó khăn khi dạy Tập viết. * Sử dụng các đồ dùng trực quan khi dạy học Tập viết: . Những đồ dùng dạy Tập viết hiện nay: Trong luyện viết cho học sinh thì đồ dùng trực quan có tác dụng không nhỏ, nó hỗ trợ và là phương tiện giúp cho việc luyện viết của học sinh. Những đồ dùng này nhằm mục đích là giúp học sinh khắc sâu những biểu tượng về chữ viết, có ý thức viết đúng mẫu và tạo không khí sôi nổi, phấn chấn trong quá trình dạy viết chữ theo hướng “Đổi mới phương pháp dạy học”. Đồ dùng trực quan có thể sử dụng trong quá trình dạy bài mới, luyện tập hoặc củng cố bài học. Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 1,2 tôi thấy việc sử dụng đồ dùng trực quan ( chữ mẫu)trong mỗi tiết tập viết là cần thiết. Đây cũng là điều kiện đầu tiên để các em viết đúng Chữ mẫu có nhiều hình thức: Chữ mẫu in sẵn, chữ mẫu phóng to trên bảng, chữ mẫu trong vở tập viết, hộp chữ mẫu, chữ mẫu của giáo viên mỗi loại chữ mẫu có tác dụng khác nhau. Cụ thể: + Chữ mẫu phóng to trên bảng sẽ giúp học sinh dễ quan sát, từ đó tạo điều kiện cho các em phân tích hình dạng, kích thước và các nét cơ bản cấu tạo chữ cái cần viết trong bài học. + Chữ mẫu của giáo viên viết trên bảng giúp học sinh nắm được thứ tự viết các nét chữ của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong một chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết liền mạch, viết nhanh. + Chữ viết trong hộp chữ giúp các em kết hợp mắt nhìn, tay sờ để phối hợp các thao tác viết chữ một cách đồng bộ. + Đồ dùng tự làm đạt hiệu quả trong việc dạy - học Tập viết: + Chữ của cô khi chấm bài, chữa bài cũng được học sinh quan sát như một loại chữ mẫu. Vì vậy tôi luôn cố gắng viết đẹp đúng mẫu, rõ ràng. Tóm lại để hỗ trợ cho việc dạy tập viết đạt hiệu quả cao người giáo viên cần triệt để sử dụng các hình thức chữ mẫu cũng như nắm vững tác dụng của mỗi hình thức chữ mẫu đó. Biện pháp 4: Rèn kỹ thuật viết chữ. .Trong quá trình dạy Tập viết và trong các hướng dẫn học, tôi sẽ củng cố, nhắc lại và khác sâu cho các em nhớ lại cách viết tử những ngày đầu các em cầm bút ở lớp 1. a) Trước tiên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nhó các đường kẻ trong bảng con và trong vở Tập viết. Việc này góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy viết chữ. 1 2 3 4 Bảng con: 1. Đường kẻ ngang trên 3. Đường kẻ ngang dưới 2. Đường kẻ ngang giữa 4. Đường kẻ ngang phía dưới Có những chữ cái cao hơn một đơn vị được xác định bằng đường kẻ ngang trên và đường kẻ ngang dưới: a, o, c... Có những chữ cái cao 2 đơn vị rưỡi được xác định bằng đường kẻ ngang trên, đường kẻ ngang giữa và đườn kẻ ngang dưới: b, g, h... Vở Tập viết (vở in và vở ô li): Vở tập viết của các em đã có sẵn đường kẻ, giáo viên cần hướng dẫn để các em nắm được một số quy ước về cách gọi. b) Giúp học sinh củng cố, nhớ lại và nắm chắc các nét cơ bản: Từ những nét cơ bản này, các chữ cái sẽ được tạo thành. Với một số kinh nghiệm bản thân cùng với sự trao đổi, học hỏi đồng nghiệp, tôi nhận thấy: nếu học sinh viết các nét cơ bản không đúng, không đẹp thì việc viết xấu, viết sai là điều không tránh khỏi. Vì vậy tôi sẽ củng cố lại cho các em cách viết các nét cơ bản. Chú ý điểm đặt bút, dừng bút. Chẳng hạn với nét khuyến xuôi (), nét khuyết ngược (), học sinh không rèn viết ngay từ đầu thì dễ viết lệch, xấu sẽ dẫn đến những chữ được tạo bởi 2 nét đó như: h, k, g, y... cũng không được đẹp và đây cũng là 2 nét khó mà học sinh thường lúng túng khi viết. Chú ý: nét khuyết phải tròn, thon đều, không to quá, cũng không nhỏ quá hoặc không bị vuông đầu và đặc biệt điểm gặp nhau của hai nét phải ở đường kẻ 2 từ dưới lên (với nét khuyết xuôi), đường kẻ 1 (với nét khuyết ngược). Không chỉ vậy, muốn học sinh viết đẹp thì với những chữ khó viết, tôi thường cho các em luyện viết lên bảng nhiều, đến khi nào học sinh viết tương đối đồng đều thì lúc đó mới viết vào vở. Những học sinh nào viết bảng xấu, chậm, tôi thường xuống tận nơi cầm tay uốn nắn các em viết đúng. c) Phân loại chữ cái theo nhóm: Để thuận tiện cho công việc giảng dạy và cho học sinh dễ dàng hơn trong Tập viết, tôi đã phân loại chữ cái theo các nhóm sau: - Nhóm 1 gồm các chữ: U, Ư, X, Y, N, M - Nhóm 2 gồm các chữ: A, Ă, Â, M, N - Nhóm 3 gồm các chữ: P, R, B, D, Đ - Nhóm 4 gồm các chữ: I, K, H, V - Nhóm 5 gồm các chữ: C, E, Ê, G, L, S, T - Nhóm 6 gồm các chữ: O, Ô, Ơ, A, Q, Q Việc chia nhóm như vậy sẽ giúp học sinhso sánh được cách viết các chữ, tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau Từ đó, học sinh nắm chắc được cách viết và các em sẽ viết được chuẩn hơn, đẹp hơn. Vì vậy, tôi cũng cho các em em luyện thêm cách viết theo nhóm trong các tiết hướng dẫn học. Tập trung rèn luyện kĩ thuật liên kết liền mạch chữ cái viết hoa với chữ cái viết thường. Tôi đã phân loại các trường hợp viết liên kết như sau: * Trường hợp viết nối thuận lợi: Nét móc cuối cùng của chữ cái đứng trước nối với nét móc đầu tiên của chữ cái đứng sau VD: Bài A – Anh em thuận hoà - Quy trình viết nối chữ Anh - Viết chữ cái A đã học. Từ điểm cuối của nét lượn ngang thân chữ cái A lia bút xuống điểm cuối của nét móc ngược phải chữ cái A để viết tiếp nét nối với nét móc trái của chữ cái n. Tiếp tục viết nét móc thứ hai của n. Khi viết đến phần móc phải phía dưới lượn cong bình thường có thể viết nối với phần nét khuyết của chữ cái h, sau đó viết hoàn chỉnh chữ cái h. * Trường hợp viết nối không thuận lợi: đó là trường hợp nét cuối của chữ cái đứng trước với điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau không thể viết nét nối. VD: Bài C – Chia ngọt sẻ bùi - Quy trình viết chữ Chia Viết chữ C như đã học, từ điểm dừng bút của chữ C lia bót để viết tiếp chữ h rồi rê bút viết tiếp chữ cái i và chữ cái a. - Kỹ thuật viết nối chữ (Các chữ cái viết thường). Việc nối chữ chủ yếu được thực hiện ở các chữ cái viết thường khi chúng đứng lại gần nhau. Dựa vào những nét cơ bản của chữ cái tiếng Việt, tôi phân loại thành 4 trường hợp nối chữ (từ dễ đến khó) và lưu ý học sinh như sau: - Trường hợp 1: nét móc cuối cùng của chữ cái trước nối với nét móc hoặc nét hất đầu tiên của chữ cái sau: VD: a – n = an; i – m = im; t – ư = tư... Nhìn chung trường hợp này viết dễ dàng thuận lợi Lưu ý học sinh: Khi nối 2 nét móc ở hai chữ cái, cần điều tiết về độ dãn (khoảng cách giữa 2 chữ cái) sao cho vừa phải, hợp lý để chữ viết đều nét và có tính thẩm mĩ. - Trường hợp 2: Nét cong cuối cùng của chữ cái sau với nét móc (hoặc nét hất) đầu tiên của chữ cái sau VD: e - m = em; c – ư = cư... Trường hợp nối chữ này cũng tương đối dễ dàng. - Lưu ý: Điều chỉnh khoảng cách giữa hai chữ cái sao cho không gần quá hay xa quá (VD: em,cư...) Hoặc chuyển hướng ngòi bút ở cuối nét cong (kín) để nối sang nét móc (hoặc nét hất) sao cho hình dạng hai chữ cái vẫn rõ ràng, khoảng cách hợp lý (VD ơn, oi...) - Trường hợp 3: Nét móc (hoặc nét khuyết) của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau (VD: a – c = ac, h – o = ho, y – ê = yê...) đây là trường hợp nối chữ tương đối khó, vừa đòi hỏi kỹ thuật lia bút vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng cách sao cho vừa phải, hợp lý. - Lưu ý học sinh: + Xác định điểm kết thúc (dùng bút) ở chữ cái trước để lia bút viết tiếp chữ cái sau sao cho liền mạch tạo thành một khối các chữ cái. + Điều chỉnh phần cuối nét móc của chữ cái trước hơi dãn rộng một chút để khi viết tiếp chữ cái sau sẽ có khoảng cách vừa phải (không gần quá) VD: Khi hướng dẫn học sinh viết chữ ao, giáo viên lưu ý nhắc HS điều chỉnh phần cuối nét móc của chữ a để khi viết tiếp chữ cái o sẽ có khoảng cách giữa a và o không gần quá (bằng khoảng cách giữa a và i (ai). - Trường hợp 4: Nét cong của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau VD: o – e = oe; o – a = oa; x- o = xo... Đây là trường hợp nối chữ khó nhất vừa đòi hỏi các kỹ thuật rê bút, lia bút, chuyển hướng bút để tạo nét nối vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng cách hợp lý, trên cơ sở thói quen và kĩ năng viết khá thành thạo của học sinh. Lưu ý học sinh trường hợp viết chữ oe, oa.: + Rê bút từ điểm cuối của chữ cái o chúc xuống để gặp điểm bắt đầu của chữ cái e sao cho nét vòng ở đầu chữ cái không được to quá (oe). Rê bút từ điểm cuối của chữ cái o sang ngang rồi lia bút viết tiếp chữ cái a (oa). Ngoài ra tôi còn hướng dẫn các em cách viết liền mạch. Viết liền mạch là viết tất cả các hình cơ bản của chữ cái trong một chữ ghi tiếng rồi sau đó mới đặt dấu (kể cả dấu phụ của con chữ) và dấu ghi thanh. VD: Viết chữ ruộng: Viết chữ liền mạch các hình cơ bản của chữ cái thành ruong sau đó đặt dấu mũ (dấu phụ) trên 0 và dấu nặng (dấu thanh) dưới ô để thành ruộng. Như vậy, với việc phân tích cách liên kết, cách viết liền mạch ngay từ những bài viết đầu tiên, nhiều học sinh trong lớp đã nắm được quy trình viết chữ¸chữ từ ứng dụng. Ở các bài tiếp theo, không cần sự hướng dẫn tỉ mỉ của cô giáo các em vẫn có thể viết đúng chữ theo mẫu. Tốc độ viết chữ của cả lớp nhanh dần. Chính vì vậy chất lượng học tập của học sinh môn Tiếng Việt được nâng lên một cách rõ rệt. Tập viết là một phân môn thực hành. Ngoài việc nắm được kĩ thuật viết chữ học sinh phải được luyện tập nhiều lần để hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Vì thế việc luyện chữ viết cho học sinh là rất quan trọng. Biện pháp 5: Tăng cường luyện tập thực hành Trước đây, trong tiết tập viết, một số giáo viên vẫn còn giảng giải nhiều thời gian luyện của học sinh còn ít... Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học giờ tập viết cần tạo điều kiện để học sinh thực hành nhiều, tự rút kinh nghiệm cho bản thân, từ đó rèn kĩ năng viết nhanh, đẹp. Tôi sử dụng các hình thức tập luyện sau: + Học sinh tập viết chữ trên bảng lớp, trên bảng con. Cách làm này rất tốt và giáo viên có thể kiểm tra được từng học sinh, uốn nắn để học sinh tự sửa chỗ sai của mình trên bảng trước khi viết vào vở. - Luyện tập viết trong vở tập viết: Giáo viên cần chú ý giúp các em viết đủ, viết đúng số dòng đầu tiên ở mỗi phần bài viết để các em viết tốt hơn ở những dòng tiếp sau: - Luyện tập viết chữ ở các môn học khác: Cần tận dụng việc tập viết các bài học, bài làm ở các môn học khác để học sinh tập viết . Để luyện tập đạt tới hiệu quả viết nhanh, đẹp, tôi thấy giáo viên cần chú ý: + Rèn luyện kĩ năng viết chữ phải tiến hành toàn diện, ở lớp, ở nhà, ở đủ các môn học khác. + Kiên trì sửa và rèn chữ viết cho học sinh Như vậy, với việc tăng cường luyện tập thực hành, học sinh lớp tôi đã có được kĩ năng viết nhanh, đẹp đồng thời rèn luyện được ý thức tự giác luyện tập trong các môn học như Toán, Tiếng Việt. Ngoài các biện pháp nêu trên tôi còn kết hợp các công việc sau: * Khuyến khích, khen ngợi kịp thời các em viết đúng, viết đẹp. Công việc này tưởng chừng đơn giản nhưng hiệu quả của nó cũng tương đối rõ rệt. Vì đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 2 rất
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_luyen_chu_viet_ch.doc