Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh Lớp Hai trường Nguyễn Văn Trỗi
Cơ sở lí luận của vấn đề
Để có một tiết học tốt trên lớp đã khó nhưng để đạt một tiết Luyện từ và câu còn khó hơn nhiều. Học sinh lớp 2 mới làm quen với phân môn này nên sẽ có nhiều yếu tố khiến các em phải quan tâm. Trong chương trình học, có những bài bao gồm mở rộng vốn từ và dùng từ đặt câu thì rất phức tạp.Mỗi bài trong tiết Luyện từ và câu đều có những đặc điểm riêng. Giáo viên phải lựa chọn phương pháp sao cho linh hoạt, phải làm chủ được nội dung tiết dạy.
Trong quá trình giao tiếp nhiều khi các em dùng từ đặt câu chưa được chính xác, còn lủng củng, chưa phù hợp với hoàn cảnh vì các em còn nhỏ, tư duy chưa phát triển cao, các em còn trong tình trạng nghĩ gì nói nấy. Chưa có sự lựa chọn khi dùng từ, câu cho thích hợp, chưa có sự trao chuốt trong cách dùng từ, câu trong các câu nói. Chính vì vậy cần có sự hướng dẫn của giáo viên để các em phát triển theo hướng tích cực.
Không có phương pháp nào là “vạn năng”, là “tuyệt đối” hiệu quả với từng đối tượng học sinh, phù hợp với mọi quá trình dạy. Chỉ có sự tìm tòi sáng tạo, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới phát huy được tính tích cực của mỗi học sinh và đạt được sự thành công qua mỗi bài dạy. Vốn từ các em trở nên đa dạng, phong phú khi các em phát huy được tính tích cực, độc lập, sáng tạo, tinh thần hợp tác làm việc, cùng với sự nhiệt tình của người giáo viên sẽ mang lại kết quả hoàn hảo nhất.
MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG Mục lục 1 Phần thứ nhất: Mở đầu 2 I.Đặt vấn đề 2 II. Mục đích nghiên cứu 2 Phần thứ hai: Giải quyết vấn đề 3 I. Cơ sở lí luận của vấn đề 3 II. Thực trạng vấn đề 3 III. Các giải pháp giải quyết vấn đề 5 IV. Tính mới của giải pháp 15 V. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 16 III. Kết luận, kiến nghị 17 Nhận xét của hội đồng chấm sáng kiến cấp trường – cấp huyện 20 Tài liệu tham khảo 19 Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề Có ý kiến cho rằng: “Mỗi âm thanh, mỗi từ ngữ, mỗi quy tắc trong Tiếng Việt đều là di sản quý báu mà ông cha ta đã để lại. Những di sản đó giúp mỗi người chúng ta có hiểu biết, có nhân cáchđồng thời nuôi dưỡngcho cả dân tộc trường tồn và phát triển”. Tiếng Việt đóng một vai trò rất quan trọng trong mỗi con người và nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi con người từ thuở bé. Không chỉ dừng lại ở đó, Tiếng Việt còn là một môn học cần thiết nhất trong bậc Tiểu học, học Tiếng Việt sẽ giúp cho học sinh hình thành và phát triển tư duy ngôn ngữ. Thông qua môn Tiếng Việt, học sinh sẽ học được cách giao tiếp, truyền đạt tư tưởng cảm xúc của mình một cách chính xác và biểu cảm. Để có được điều đó thì đòi hỏi học sinh phải có vốn từ và khả năng trau dồi vốn từ thông qua từng hoạt động học và giao tiếp. Qua quá trình giảng dạy lớp 2 nói chung và môn Tiếng Việt lớp 2 nói riêng tôi nhận thấy rằng: Tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt 2 giúp học sinh hình thành kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, kỹ năng thực hành giao tiếp cụ thể. Nội dung tài liệu tinh giản, tích hợp các kiến thức thiết thực mang tính cập nhật, phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi học sinh Tiểu học trong thời đại mới hiện nay. Hơn nữa, từ là một công cụ để cấu thành ngôn ngữ, để các em hiểu được nghĩa của từ đã khó, còn phải biết dùng từ như thế nào cho đúng ngữ pháp, phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp lại càng khó hơn. Xuất phát từ thực tế từ năm học 2016 – 2017, tôi nhận thấy rằng để các em nắm vững phân môn Luyện từ và câu là điều hết sức quan trọng. Làm nền móng vững chắc cho việc tiếp thu các kiến thức cao hơn ở lớp học trên. Vì vậy trong năm học 2017 – 2018, để khắc phục những khó khăn mà học sinh đang mắc phải, tôi mạnh dạn đưa ra: “Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường Nguyễn Văn Trỗi”để giúp tôi và đồng nghiệp cùng tháo gỡ những khó khăn cũng như những băn khoăn, trăn trở trong quá trình giảng dạy nhằm phát huy khả năng sử dụng vốn từ của học sinh. II. Mục đích nghiên cứu Nhiệm vụ học tập, nhu cầu khám phá những cái mới, nhu cầu giao tiếp buộc học sinh phải tăng cường vốn từ. Một trẻ em có vốn từ phong phú sẽ dễ dàng tiếp thu bài giảng, tiếp thu kiến thức mới, luôn hoạt ngôn, tự tin trong giao tiếp. Nhưng ngược lại, chỉ với một vốn từ nghèo nàn, các em sẽ tự ti, khó khăn trong giao tiếp. Dần dần sinh ra mặc cảm, ảnh hưởng đến chất lượng học tập. Vì thế, làm giàu vốn từ là một trong những nội dung cần thiết nhất ở lứa tuổi tiểu học. Qua quá trình giảng dạy và học tập tôi đã hiểu được những cơ sở lí luận trong công tác giáo dục học sinh, đặc biệt là chất lượng dạy và học phân môn Luyện từ và câu lớp 2. Tôi đã tìm hiểu những biện pháp thực tế trong quá trình giảng dạy phân môn quan trọng này, nhằm nâng cao chất lượng cho học sinh. Nhưng trong quá trình dạy, tôi nhận ra học sinh rất khó khăn trong việc phân biệt câu, chữ và tiếng giữa các từ trong câu, nhận biết câu trong quá trình học và làm bài tập cũng như việc lựa chọn, sử dụng các từ để đặt câu theo đúng mục đích nói. Mặc khác, nhiệm vụ mà giáo viên luôn đặt lên hàng đầu là làm sao để nâng cao chất lượng khi dạy phân môn Luyện từ và câu. Có giảng dạy tốt thì chất lượng học sinh mới được nâng cao. Kết quả học tập của các em là câu trả lời chính xác nhất đối với giáo viên trong quá trình truyền đạt kiến thức đến học sinh. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần truyền đạt hết sức mình để các em tiếp thu bài một cách hiệu quả. Phần thứ 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận của vấn đề Để có một tiết học tốt trên lớp đã khó nhưng để đạt một tiết Luyện từ và câu còn khó hơn nhiều. Học sinh lớp 2 mới làm quen với phân môn này nên sẽ có nhiều yếu tố khiến các em phải quan tâm. Trong chương trình học, có những bài bao gồm mở rộng vốn từ và dùng từ đặt câu thì rất phức tạp.Mỗi bài trong tiết Luyện từ và câu đều có những đặc điểm riêng. Giáo viên phải lựa chọn phương pháp sao cho linh hoạt, phải làm chủ được nội dung tiết dạy. Trong quá trình giao tiếp nhiều khi các em dùng từ đặt câu chưa được chính xác, còn lủng củng, chưa phù hợp với hoàn cảnh vì các em còn nhỏ, tư duy chưa phát triển cao, các em còn trong tình trạng nghĩ gì nói nấy. Chưa có sự lựa chọn khi dùng từ, câu cho thích hợp, chưa có sự trao chuốt trong cách dùng từ, câu trong các câu nói. Chính vì vậy cần có sự hướng dẫn của giáo viên để các em phát triển theo hướng tích cực. Không có phương pháp nào là “vạn năng”, là “tuyệt đối” hiệu quả với từng đối tượng học sinh, phù hợp với mọi quá trình dạy. Chỉ có sự tìm tòi sáng tạo, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới phát huy được tính tích cực của mỗi học sinh và đạt được sự thành công qua mỗi bài dạy. Vốn từ các em trở nên đa dạng, phong phú khi các em phát huy được tính tích cực, độc lập, sáng tạo, tinh thần hợp tác làm việc, cùng với sự nhiệt tình của người giáo viên sẽ mang lại kết quả hoàn hảo nhất. II.Thực trạng vấn đề 1. Thuận lợi Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi là một trong những trường có truyền thống hiếu học, cơ sở vật chất ngày càng khang trang, trang thiết bị đồ dùng dạy học cần thiết luôn đầy đủ cho giáo viên và học sinh. Ban giám hiệu luôn quan tâm tới việc chỉ đạo đổi mới phương pháp và các hình thức dạy học, đặt công tác bồi dưỡng cho giáo viên lên hàng đầu. Giáo viên tích cực học hỏi để tìm ra các phương pháp dạy học mới, lấy học sinh làm trung tâm. Lớp tôi chủ nhiệm được học 9 buổi trên tuần nên giáo viên có nhiều thời gian để bồi dưỡng kiến thức cho học sinh. Đa số học sinh ngoan ngoãn, biết vâng lời thầy cô giáo. 2. Khó khăn Ở lớp 1 trong quá trình học Công nghệ Tiếng Việt các em được học nghiêng về ngữ âm, nhiệm vụ chính của các em là đọc, chưa cần hiểu nhiều về nghĩa. Nhưng lên lớp 2 các em phải tiếp thu thêm một khối kiến thức khổng lồ đặc biệt là phân môn Luyện từ và câu. Chính vì thế các em còn bỡ ngỡ, lúng túng trong quá trình học cũng là điều dễ hiểu. Trong thực tế giảng dạy và qua các lần thao giảng, bản thân tôi nhận thấy các hình thức tổ chức dạy học trong phân môn Luyện từ và câu còn đơn điệu, rập khuôn máy móc theo sách hướng dẫn, ít có tính đổi mới, sáng tạo nên học sinh chưa hứng thú, giờ học trở nên nặng nề, bắt buộc dẫn đến chất lượng của tiết học chưa cao. Qua kinh nghiệm trong nhiều năm giảng dạy và quan sát thực tế, tôi nhận thấy rằng học sinh khi học Luyện từ và câu thường mắc phải những nhược điểm sau: - Về từ: Học sinh tìm từ còn sai yêu cầu, hiểu nghĩa từ còn mơ hồ, phát hiện từ loại chậm, số lượng từ tìm được ít, còn nhầm lẫn giữa s/x, r/d/gi. - Về câu: Đặt câu theo mẫu còn nhầm lẫn, chưa rõ nghĩa, còn thừa hoặc thiếu. Giao tiếp với nhau thiếu chủ - vị, chưa có hình ảnh và sắc thái cảm xúc. Từ những thực trạng tôi đã nêu trên, vào cuối năm học 2016 -2017 tôi cho các em làm một bài khảo sát chất lượng và nhận được kết quả không như mong đợi: Xếp loại Số lượng Tỉ lệ Nhận xét Hoàn thành tốt 3 10% Vốn từ phong phú, vận dụngtốt vốn từ trong giao tiếp. Hoàn thành 15 50% Vốn từ chỉ dừng lại ở mức cơ bản, hiểu được nội dung nhưng vận dụng vốn từ trong giao tiếp còn hạn chế Chưa hoàn thành 12 40% Vốn từ quá ít, không biết sử dụng từ để giao tiếp. Với những cơ sở lí luận và căn cứ vào thực tiễn như đã nêu trên, từ đầu năm học 2017 – 2018, tôi đi sâu vào khả năng phân biệt từ và câu, khả năng nhận biết từ và cách dùng từ để đặt câu của học sinh lớp 2, qua đó thấy được những ưu điểm và tồn tại trong quá trình học để tìm ra các giải pháp, nhằm khắc phục những tồn tại mà học sinh đang mắc phải. Để nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Luyện từ và câu cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng. III.Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề Qua nhiều năm giảng dạy lớp 2, từ những mong muốn giúp học sinh có được vốn từ phong phú và phong thái tự tin trong giao tiếp. Tôi đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp sau: - Giải pháp: Tăng cường vốn từ cho học sinh qua các dạng bài tập. - Giải pháp: Giúp học sinh tích cực khi học Luyện từ và câu. - Giải pháp: Tìm từ qua các câu đố theo chủ điểm. Tăng cường vốn từ cho học sinhqua các dạng bài tập Trong chương trình học Luyện từ và câu lớp 2, các dạng bài tập chủ yếu là tìm từ, đối đáp và đặt câu theo mẫu. Tuy nhiên các dạng bài tập này trong tài liệu hướng dẫn thường rập khuôn, máy mócvà được biên soạn trong phạm vi mọi đối tượng học sinh đều có khả năng làm được. Nên học sinh khó có thể mở rộng vốn từ cho mình. Vì vậy, tôi đã dựa vào các dạng bài tậpđể phân hóa thêm nhiều hoạt động, với mong muốn học sinh sẽ tích lũy được một nguồn vốn từ phong phú. Trong giải pháp này, tôi xây dựng ba biện pháp: 1.1. Hướng dẫn cho học sinh sử dụng các mẹo để tránh lẫn lộn giữa vần s/x, r/d/gi khi tìm từ Trong quá trình tìm từ, đặt câu, đối với học sinh lớp 2 việc phân biệt giữa các phụ âm đầu như s/x , r/d/gikhông phải là việc đơn giản, mặt khác do giọng nói đặc trưng của từng vùng miền nên ngôn ngữ nói của các em sẽ mang tính địa phương và sẽ mang luôn cả đặc trưng đó vào ngôn ngữ viết. Dẫn đến các từ, các câu các em tìm được hầu hết là bị sai. Ví dụ: Học sinh làm hoạt động [5. Tr 85] bài 6C tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt 2 tập 2A. Yêu cầu của hoạt động là: Tìm từ có tiếng bắt đầu bằng s/x. Nhưng qua quan sát bài làm, tôi thấy học sinh còn nhầm lẫn s/xrất nhiều. Hình 1: Bài làm của học sinh còn nhầm lẫn giữa s/x Để khắc phục những lỗi mắc phải đó tôi đã hướng dẫn học sinh qua các bước - Bước 1: Sửa sai bài làm cho học sinh - Bước 2:. Tôi yêu cầu các em tiếp tục tìm từ có tiếng bắt đầu bằng s/xtheo nhóm. Tiếp theo tôi nhận xét bài làm của các nhóm và đưa các từ đúng lên bảng chính và cùng học sinh tìm thêm nhiều từ có chứa tiếng bắt đầu bằng s/x. - Bước 3: Dẫn dắt và chỉ ra cho học sinh các mẹo để kết hợp với âm s/x: + Mẹo kết hợp âm đệm:S không đi với các vần oa, oe, uê, oăn chỉ có x là đi với các vần này. Ví dụ: Xoa tay, xoay xở, cây xoan, xoắn lại, tóc xoăn, xòa tay, xoen xoét, xuề xòa, xuyên quaNhưng vẫn có một số trường hợp ngoại lệ tôi đã lưu ý cho học sinh như rà soát, kiểm soát, soạn bài và những trường hợp điệp âm đầu trong từ láy: suýt soát, sờ soạng, sột soạt +Mẹo láy âm:S không láy âm với các âm đầu khác, chỉ có x mới có khả năng này. Ví dụ như: Lì xì, xích mích, lộn xộn, loăn xoăn, bờm xờm + Tên các đồ dùng liên quan đến công việc nấu nướng, ăn uống, các loại thức ănthường viết với x như: Xôi, xà lách, xúc xích, lạp xưởng, cái xoong, que xiênnhưng vẫn có một số trường hợp ngoại lệ như cây sả, sợi mì + Đa số các danh từ chỉ đồ vật, cây cối, đại từ đều viết với snhư: Sông, suối, ông sư, bà sãi, cây sung, sầu riêng, cấy sồi, cây sim, hoa sen, hoa súng, cái sọt, sợ dây, ông sao, khẩu súngNhưng trong trường hợp này vẫn có một số từ ngoại lệ như: cây xoan, cây xoài, dây xích, cái xẻng, mùa xuân Tương tự đối với các bài tập tìm từ có chứa tiếng bắt đầu bằng d/r/gi tôi cũng hướng dẫn học sinh với phương pháp trên: - Đối với d/r/gi: + Mẹo về âm đệm: Chỉ có d mới kết hợp với âm đệm, còn r và gi không kết hợp với các vần này như: Hậu duệ, kiểm duyệt, duy nhất, duy trì nhưng có một trường hợp ngoại lệ là roa trong cu – roa. + Mẹo run rẩy – rừng rực: Những từ láy điệp âm đầu r chỉ sự rung động ở nhiều cung bậc khác nhau, những sắc thái, ánh sáng tươi, chói như: Rả rích, rì rào,răng rắc, rầm rập, rón rén,rập rình, run rẩy, rung rinh, rạo rực, rực rỡ, rạng rỡ, rói rói, rừng rực Sau một thời gian nắm được các mẹo kết hợp này, trong những hoạt động sau các em tiến bộ hơn rất nhiều. Không còn nhầm lẫn khi tìm từ có chứa tiếng bắt đầu bằng s/x, r/d/gi, và từ các em tìm được phong phú và đa dạng hơn. Hình 2: Bài làm của học sinh sau khi nắm được mẹo kết hợp với âm s/x 1.2. Mở rộng vốn từ qua dạng bài tập hỏi - đáp Học sinh muốn sử dụng ngôn ngữ để bày tỏ được những suy nghĩ, cảm xúc của bản thân với người xung quanh, thì đòi hỏi các em cần một vốn ngôn ngữ nhất định, trong đó có vốn từ. Vốn từ càng phong phú, các em càng thể hiện được một cách chính xác, đầy đủ và tinh tế những những điều mình muốn bày tỏ. Qua đó sẽ nâng cao được hiệu quả giao tiếp. Chất lượng của một cuộc giao tiếp luôn luôn tỉ lệ thuận với vốn từ của các em. Chính vì vậy, làm phong phú vốn từ cho các em là một hoạt động rất quan trọng và cần thiết. Trong chương trình Luyện từ và câu lớp 2, phần lớn là dạng bài tập hỏi - đáp, đối - đáp theo tình huống. Đây là dạng bài tập nhằm củng cố vốn từ cho học sinh, giúp học sinh mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Nên tôi đã dựa vào thế mạnh của dạng bài tập này và đưa ra các hoạt động phân hóa để trau dồi thêm vốn từ, kỹ năng đối thoại cho các em. Ví dụ 1: Trong hoạt động [4. Tr 20], bài 11A, tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt 2, tập 1B, nhiệm vụ của học sinh là đối đáp về tác dụng của các đồ vật và nội dung của cuộc trò chyện trong tài liệu hướng dẫn là: - Học sinh A: Cái ghế dùng để làm gì? - Học sinh B: Cái ghế dùng để ngồi. Nhưng nếu câu chuyện chỉ dừng lại ở đó thì cuộc đối đáp sẽ không thú vị và không thể khai thác được sự sáng tạo của học sinh trong khi dùng các cụm từ, các câu để đối đáp. Nên tôi đã hướng dẫn học sinh mở rộng cuộc trò chuyện dựa trên nội dung sẵn có để cuộc trò chuyện sinh động, sôi nổi hơn. - Học sinh A: Vậy bạn có biết chiếc ghế này được làm bằng gì không? - Học sinh B: Chiếc ghế này làm từ gỗ và được đôi bàn tay khéo léo của thợ mộc làm ra đấy. - Học sinh A: Những người thợ mộc giỏi quá! Họ làm ra những chiếc ghế đẹp thế này chắc vất vả lắm. - Học sinh B: Nên khi sử dụng những chiếc ghế này, mình phải biết giữ gìn chúng nhé! Qua nhiều tiết học như vậy thì chắc chắn các em sẽ tích lũy dần cho mình không những là một vốn từ phong phú mà còn là kỹ năng chững chạc trong giao tiếp, ứng xử nơi công cộng. Ví dụ 2: Yêu cầu của hoạt động [5.tr16], bài 19B, tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt 2, tập 2A làhọc sinh đóng vai và đáp lời trong tình huống chị phụ trách Đội nói chuyện với các em nhỏ. Khi thực hiện yêu cầu này, tôi không chọn học sinh trong lớp đóng vai chị phụ trách Đội mà tôi nhờ một học sinh lớp 5 tham gia hoạt động cùng các học sinh trong lớp. Nội dung đối đáp theo trong tài liệu hướng dẫn là: - Chị phụ trách Đội: Chào các em - Các bạn học sinh: Chúng em chào chị ạ! - Chị phụ trách Đội: Chị tên là Hương, chị được cử phụ trách sao của các em. - Các bạn học sinh: Ôi ! thích quá! Sau khi đối đáp hết nội dung có sẵn trong bài, tôi gợi mở, hướng dẫn các em thay thế các câu phong phú hơn những vẫn giữ được nghĩa của bản gốc để cuộc trò chuyện sôi nổi, lí thú hơn. Để hoạt động này mang lại hiệu quả, tôi tiến hành mở rộng vốn từ bằng việc gợi ý cho học sinh một số từ cho câu nói thêm sinh động, lôi cuốn người nghe nhưng vẫn không làm mất đi nghĩa của câu muốn nói. Đối với phương pháp dạy này, bước quan trọng để tạo hiệu quả cho giờ dạy chính là hướng dẫn cho học sinh hiểu nghĩa của câu và tìm được, nếu học sinh chưa tìm được câu tương ứng thì tôi sẽ gợi mở và cung cấp để học sinh tìm được câu thay thế phù hợp nhất. Chẳng hạn như: - Chị phụ trách Đội: Chị lại được gặp các em trong tiết sinh hoạt sao tuần này rồi! - Các bạn học sinh: Chúng em rất vui khi được gặp lại chị ạ! - Chị phụ trách Đội: Chị cũng rất vui, các em còn nhớ chị tên gì không nào? - Các bạn học sinh: Dạ có ạ! Chị tên là Hương. Chị được cô Tổng phụ trách cử xuống sinh hoạt Sao với chúng em ạ! Hình 3: Học sinh lớp 5 tham gia đóng vai cùng các em Qua cuộc trò chuyện trên, khi giao tiếp với chị lớp 5 các em sẽ mạnh dạn hơn, không còn rập khuôn, máy móc theo nội dung bài học nữa mà chủ động xử lí các tình huống nhạy bén, linh hoạt hơn. Bên cạnh đó, trong các buổi sinh hoạt Sao, tôi cũng đưa ra các tình huống theo chủ điểm trong tháng để các em đóng vai với nhau. Qua đó sẽ giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn. Đồng thời, rèn luyện cho các em kỹ năng lễ phép, biết cách xưng hô hợp lí, dùng câu đầy đủ khi giao tiếp. 1.3 Tăng cường vốn từ của học sinh qua dạng bài tập đặt câu theo mẫu Ở lớp 2, học sinh bước đầu chập chững làm quen với việc đặt câu theo mẫu thật sự rất mới mẻ và hơi khó khăn. Tuy nhiên với sự thông minh và ham học hỏi, cộng với sự hướng dẫn của giáo viên thì học sinh vẫn hoàn thành được nội dung học của mình theo mẫu đưa ra. Nhưng nếu như học sinh chỉ đặt câu dừng lại ở mức độ đó thì vô tình dẫn các em rơi vào tình trạng máy móc, thiếu sáng tạo. Câu văn mà các em đặt khô khan và sáo rỗng, không có cảm xúc. Luyện tập đặt câu giúp các em nắm vững được cấu trúc của câu để vận dụng tốt vào giao tiếp, nhưng làm thế nào để thu hút sự chú ý người nghe và để người nghe hiểu được hết nội dung mình muốn truyền tải mới là việc khó. Vì vậy, tôi đã chú ý đến việc trau dồi vốn từ cho các em ngay từ đầu. Và để làm tốt được đều này tôi đã đựa vào dạng bài tập đặt câu theo mẫu “Ai là gì?”, “Ai thế nào?”, “Ai làm gì?” để bổ sung thêm vốn từ cho các em. Ví dụ: Khi dạy dạng bài tập đặt câu theo mẫu “Ai làm gì?”, tôi thấy hầu hết học sinh đều đặt được câu theo mẫu nhưng câu văn của các em chưa có hình ảnh, chưa có sự sáng tạo. Khi dạy đến hoạt động [4. Tr46], bài 13A, tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt 2, tập 1B với các câu và điền từng bộ phận của mỗi câu vào bảng theo mẫu: a. Cậu bé nhìn lên tán lá. b. Cậu bé òa khóc. c. Họ đem hạt gieo trồng khắp nơi. d. Bố còn tặng nhà trường một khóm hoa cúc đại đóa đẹp mê hồn. Ai? (nhóm 1) Làm gì? (nhóm 2) Cậu bé nhìn lên tán lá. Cậu bé òa khóc. Họ đem hạt gieo trồng khắp nơi. Bố còn tặng nhà trường một khóm hoa cúc đại đóa đẹp mê hồn. Với yêu cầu này của bài tập, tôi thấy học sinh đều hoàn thành, nhưng với mong muốn học sinh của mình tích lũy thêm được nhiều vốn từ. Tôi đã tiếp tục thực hiện theo các bước sau: - Bước 1: Yêu cầu học sinh đặt thêm các câu theo mẫu “Ai làm gì?” Đa số mọi học sinh đều đặt được và những câu các em tìm được là: + Bạn Hoa làm bài tập. + Con hổ có bộ lông rất đẹp. + Bà em nhai trầu. + Học sinh đang học thể dục. Bước 2: Sau đó, tôi yêu cầu các em tiếp tục chia các câu vừa đặt được vào tiếp trong ô ở phần bài tập. Ai? (nhóm 1) Làm gì? (nhóm 2) Cậu bé nhìn lên tán lá. Cậu bé òa khóc. Họ đem hạt gieo trồng khắp nơi. Bố còn tặng nhà trường một khóm hoa cúc đại đóa đẹp mê hồn. Bạn Hoa làm bài tập. Con hổ có bộ lông rất đẹp. Bà em nhai trầu. Học sinh đang học thể dục. Tiếp đến tôi đưa ra câu hỏi cho học sinh: + Bộ phận trả lời câu hỏi “Ai?” là những từ thuộc nhóm nào? + Học sinh trả lời: Nhóm 1 + Bộ phận trả lời câu hỏi “Làm gì? là những từ thuộc nhóm nào? + Học sinh trả lời: Nhóm 2 Sau khi các em trả lời tốt các câu hỏi trên, tôi cho các em trực tiếp vận dụng để nối các từ ở nhóm 1 và các cụm từ ở nhóm 2 để tạo thành câu có nghĩa. Ví dụ: + Cậu bé làm bài tập. +Bà em đem hạt gieo trồng khắp nơi. + Học sinh làm bài tập. + Con hổ nhìn lên tán lá. Tôi thấy học sinh của mình rất hào hứng khi ghép câu. Từ những câu có sẵn, các em đã cắt, ghép được vô số câu khác với câu mẫu nhưng vẫn giữ đúng nghĩa, đúng cấu trúc câu. Để thử xem học sinh của mình có nắm được bài hay không, tôi đưa ra câu trước lớp là “Con hổ đang học thể dục” thì cả lớp cười ồ lên thích thú và cho rằng câu tôi vừa sắp xếp được là chưa hợp lí và sai nghĩa. Qua hoạt động này, sẽ giúp các em sàng lọc để dùng từ đặt câu chính xác, hợp lí và có nghĩa. Hơn thế nữa trong hoạt động này những học sinh đạt mức chưa hoàn thành cũng sắp xếp được rất nhiều câu có nghĩa. - Bước 4: Sau khi học sinh đã nắm chắc được mẫu câu “Ai làm gì”. Tôi muốn câu văn của các em có hình ảnh và giàu cảm xúc hơn. Câu văn có hình ảnh là câu văn mà ngoài hai bộ phận chính làm nòng cốt còn có thêm một số bộ phận phụ đi kèm mà ở các lớp học trên có khái niệm định ngữ và bổ ngữ. Mục đích hướng cho học sinh đặt c
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_mo_rong_von_tu_cho_ho.docx