Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫn dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫn dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2

Năm học 2021- 2022 diễn ra trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 kéo dài, học sinh phải học trực tuyến và học 1 buổi/ngày. Năm học 2022 – 2023 học sinh mới được đến trường học trực tiếp và học 2 buổi/ngày. Với thực tế học sinh lớp tôi còn có một số em đọc phải đánh vần, hiểu chậm nên tiếp thu kiến thức mới cũng chậm. Cộng với khả năng ghi nhớ còn hạn chế dẫn đến việc vận dụng kiến thức của các em gặp nhiều khó khăn. Cụ thể là khả năng đọc hiểu bài toán của các em chưa tốt nên nhiều học sinh không biết tóm tắt, không biết phân tích đề, không biết yêu cầu của đề là gì và xác định sai dạng toán. Một số học sinh thiếu tự tin khi giải toán, có em làm được phép tính nhưng chưa hiểu được cách ghi lời giải, ghi sai đơn vị, … Việc giúp các em học toán theo hướng “giải trí tinh thần”, vừa giúp việc học tốt môn toán là điều cần thiết mà tôi luôn lưu tâm, tìm hướng giải quyết.

Qua thực tế giảng dạy trong thời gian 2 năm học ở khối lớp 2, tôi nhận thấy “Giải toán có lời văn” là mạch kiến thức tương đối khó đối với học sinh. Việc học sinh học toán và giải toán có lời văn thường rất chậm chạp so với các dạng bài tập khác. Các em thường có một thói quen không tốt cho lắm đó là: Đọc đề bài qua loa, chưa suy nghĩ kĩ đã giải bài toán ngay. Vì vậy, các em còn lúng túng trong việc xác định dạng toán và tóm tắt đề toán. Khi giải bài toán các em ít tư duy, còn máy móc, nếu đề cho nhiều hơn là làm phép tính cộng, ít hơn là làm phép trừ, gấp là làm nhân, kém là làm chia mà không để ý đến dữ kiện của bài toán đã cho nên nhiều khi chọn phép tính không đúng dẫn đến kết quả sai.

doc 19 trang Mai Loan 29/05/2024 1840
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫn dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lý do chọn đề tài
Xuất phát từ mục đích, yêu cầu của chương trình Toán lớp 2 - Chương trình giáo dục phổ thông 2018, với những hạn chế về tâm lý lứa tuổi, việc đọc, tìm hiểu đề toán, tóm tắt đề, đặt câu lời giải, phép tính, đáp số đối với các em còn gặp nhiều khó khăn. Việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở Tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng, bản thân tôi cũng như nhiều bạn đồng nghiệp còn băn khoăn trăn trở, làm thế nào để giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn đạt kết quả cao. Bản thân tôi nhận thấy cần phải nghiên cứu, tìm các biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng; mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán. Với những lý do trên, tôi đã chọn giải pháp là nghiên cứu thực hiện sáng kiến: 
“Một số biện pháp hướng dẫn dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này nhằm đưa ra được một số biện pháp giúp học sinh biết cách tóm tắt đề toán, phương pháp giải bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và lớp 2 nói riêng. Có định hướng giải phù hợp với trình độ nhận thức, đặc điểm tâm lí của học sinh lớp 2, góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng bồi dưỡng và rèn luyện kĩ năng giải toán cho học sinh.
3. Thời gian, đối tượng, phạm vi
3.1 Thời gian nghiên cứu: Bắt đầu nghiên cứu từ đầu năm học 2021 – 2022 đến năm học 2022 - 2023. Các năm tiếp theo tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn thiện.
3.2 Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về phương pháp giải các bài toán có lời văn trong chương trình toán lớp 2. Khả năng đọc hiểu đề toán, tìm hiểu đề toán, tóm tắt và giải bài toán có lời văn của học sinh lớp 2 và yêu cầu cơ bản về kiến thức kỹ năng trong sách giáo khoa môn Toán lớp 2 mới – CTGDPT 2018.
3.3 Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 2A, 2B - Trường Tiểu học Thái Hòa – Ba Vì – Hà Nội.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận 
Tư duy của học sinh Tiểu học đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Các em sẽ dễ nhận thức được những gì cụ thể, gần gũi, thường bắt đầu bằng những biểu tượng đơn giản nên kiến thức toán học được hình thành chủ yếu bằng con đường thực nghiệm. Xu thế dạy học toán theo cách tổ chức cho học sinh hoạt động bằng tay với các đồ vật, hoạt động quan sát với các mô hình, hình vẽ, ... Vì vậy, phương pháp dạy học nhất thiết phải mang tính trực quan, sinh động.
Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu của chương trình mới, đó là điều cần phải bàn và trao đổi nhiều đối với chúng ta – những người trực tiếp giảng dạy cho các em nhất là việc: Đặt câu lời giải cho bài toán. Nếu như học sinh nắm bắt được cách giải toán ngay từ lớp 2 thì khi đến các lớp trên các em dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và gọt giũa, thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp tục học tốt ở các lớp sau.
2. Cơ sở thực tiễn
Với hơn 20 năm dạy học ở trường Tiểu học, một điều khiến tôi trăn trở, băn khoăn và suy nghĩ rất nhiều, đó là làm thế nào khắc phục được tình trạng học sinh trong cùng một lớp nhưng trình độ nhận thức lại không đồng đều. Cùng một kiến thức do giáo viên đưa ra, có em nắm bắt rất nhanh, say sưa hứng thú bắt tay ngay vào việc tìm hiểu và giải quyết vấn đề nhưng cũng có em thì ngồi đó với tâm trạng hờ hững do không nắm được bản chất của vấn đề đó, sinh ra chán nản, hiệu quả giảm sút rất nhiều,... Đó là một thực tế mà người giáo viên đứng lớp ai cũng gặp phải, nhất là trong quá trình dạy giải toán có lời văn. Chính vì vậy mà tôi đã lấy cơ sở từ lớp 2A của năm học 2020 – 2021 và lớp 2B của năm học 2022 - 2023 đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu để giải quyết vấn đề này nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, giúp các em có kĩ năng khi giải toán có lời văn.
3. Thực trạng
Năm học 2021- 2022 diễn ra trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 kéo dài, học sinh phải học trực tuyến và học 1 buổi/ngày. Năm học 2022 – 2023 học sinh mới được đến trường học trực tiếp và học 2 buổi/ngày. Với thực tế học sinh lớp tôi còn có một số em đọc phải đánh vần, hiểu chậm nên tiếp thu kiến thức mới cũng chậm. Cộng với khả năng ghi nhớ còn hạn chế dẫn đến việc vận dụng kiến thức của các em gặp nhiều khó khăn. Cụ thể là khả năng đọc hiểu bài toán của các em chưa tốt nên nhiều học sinh không biết tóm tắt, không biết phân tích đề, không biết yêu cầu của đề là gì và xác định sai dạng toán. Một số học sinh thiếu tự tin khi giải toán, có em làm được phép tính nhưng chưa hiểu được cách ghi lời giải, ghi sai đơn vị,  Việc giúp các em học toán theo hướng “giải trí tinh thần”, vừa giúp việc học tốt môn toán là điều cần thiết mà tôi luôn lưu tâm, tìm hướng giải quyết.
Qua thực tế giảng dạy trong thời gian 2 năm học ở khối lớp 2, tôi nhận thấy “Giải toán  có lời văn” là mạch kiến thức tương đối khó đối với học sinh. Việc học sinh học toán và giải toán có lời văn thường rất chậm chạp so với các dạng bài tập khác. Các em thường có một thói quen không tốt cho lắm đó là: Đọc đề bài qua loa, chưa suy nghĩ kĩ đã giải bài toán ngay. Vì vậy, các em còn lúng túng trong việc xác định dạng toán và tóm tắt đề toán. Khi giải bài toán các em ít tư duy, còn máy móc, nếu đề cho nhiều hơn là làm phép tính cộng, ít hơn là làm phép trừ, gấp là làm nhân, kém là làm chia mà không để ý đến dữ kiện của bài toán đã cho nên nhiều khi chọn phép tính không đúng dẫn đến kết quả sai. Số liệu khảo sát học sinh lớp 2B trước khi thực hiện đề tài sau đây cho thấy rõ điều đó”
Mức đạt
 ND
Đánh giá
Sĩ số
HS
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Số bài
Tỉ lệ
Số bài
Tỉ lệ
Số bài
Tỉ lệ
Học sinh hiểu đề bài
34
6
20,4%
18
52,9%
 10
26,7 %
HS tóm tắt bài toán
34
5
14,8%
17
50%
12
35,2 %
HS trình bày bài giảng
34
7
20,6%
18
52,9%
9
26,5%
Để khắc phục những hạn chế và tìm ra biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh. Tôi đã tiến hành một số biện pháp sau:
4. Các biện pháp thực hiện
4.1. Điều tra, phân loại đối tượng học sinh trong lớp
Do tình hình dịch bệnh covid kéo dài các con phải học trực tuyến ngay buổi học đầu tiên Mặc dù dạy học online nhưng tôi vẫn rất chú ý đến việc nắm kiến thức của các con nhất là môn Toán. Qua điều tra đầu năm bằng việc cho các con làm bài kiểm tra, tôi đã chấm bài các con qua việc các con gửi bài trên zalo. Mặt khác qua các tiết dạy dạng bài này, tôi phân loại những em còn yếu về loại toán điển hình nào để tôi kịp thời kèm cặp các em.
Lớp tôi có một số em giải toán còn yếu. Các em thường sợ làm dạng toán này. Các em không biết cách giải, hay trả lời sai, làm tính không đúng. Tôi luôn quan tâm động viên các em học sinh để các em chăm học, tích cực làm bài, các em tự tin vào khả năng của mình để suy nghĩ, phán đoán tìm cách giải đúng. 
Trong các giờ lên lớp tôi luôn động viên cho các em suy nghĩ tìm ra cách giải. Tôi thường xuyên gọi học sinh lên bảng, kiểm tra bài làm của em trên lớp, chấm chữa cùng với học sinh để củng cố kiến thức. Tuyên dương khen thưởng kịp thời bằng nhận xét khen ngợi nếu các em có cố gắng (mặc dù chưa đạt yêu cầu) để các em phấn khởi học tập, xoá đi ấn tượng sợ giải toán. 
Ngoài ra, tôi yêu cầu các em làm lại bài toán này ở nhà để các em yếu kém nắm vững cách giải. Lần sau gặp loại bài như thế là làm được ngay. Tôi còn yêu cầu phụ huynh kết hợp chặt chẽ với giáo viên, có trách nhiệm hướng dẫn con học ở nhà giúp các em làm đầy đủ bài tập cô giao. Ngoài ra tôi còn giao cho những em giỏi toán ở lớp mỗi em giỏi giúp một em kém lập thành đôi bạn cùng tiến bằng cách: Giờ truy bài kiểm tra bài làm của bạn. Nếu bạn giải sai thì hướng dẫn giải lại cho bạn nắm được phương pháp giải toán. 
4.2. Giảng bài mới kết hợp củng cố, vận dụng kiến thức đã học:
Giảng bài mới trong tiết học Toán hết sức quan trọng. Học sinh có vận dụng luyện tập giải Toán đúng hay sai là ở chỗ này. Do vậy, trong khi dạy, tôi luôn bảo đảm truyền thụ đủ nội dung kiến thức của bài học bằng cách:
 	- Chuẩn bị bài hết sức chu đáo, cẩn thận. Soạn bài theo đúng công văn 2345 của Bộ giáo dục trước một tuần để có thêm thời gian nghiên cứu, nắm chắc yêu cầu cần đạt của bài học.
- Khi soạn bài, tôi luôn tìm hướng giảng bài mới một cách dễ hiểu nhất đối với trò mà vẫn phát huy được tư duy của trò, lấy "học sinh làm trung tâm". Không những soạn Kế hoạch bài dạy mà tôi còn rất trú trọng đến việc làm bài giảng điện tử Powerpoint trình chiếu với những hình ảnh phong phú, clip sinh động giúp cho học sinh tiếp thu kiến thức một cách nhanh nhất.
Vì vậy, kết hợp với khâu chuẩn bị bài của học sinh, trong mỗi tiết dạy bài mới, tôi cung cấp đủ nội dung bài, đồng thời khuyến khích học sinh vận dụng kiến thức đã học có liên quan thực hiện phương châm "ôn cũ, học mới".
Với cách thực hiện như thế, học sinh sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng mà đầy đủ kiến thức, được củng cố kiến thức cũ có hệ thống, vận dụng giải Toán sẽ linh hoạt, không bị gò ép phụ thuộc, tạo cho học sinh có thói quen chủ động tích cực trong giải Toán.
* Các hình thức tổ chức thực hiện: Thảo luận trong nhóm: Học sinh đọc kĩ đề bài, nhận xét dữ kiện, tóm tắt đề toán, tìm ra cách giải. Các em khá giỏi trong nhóm đưa ra một số câu hỏi để các bạn yếu hơn được trả lời, được tham gia ý kiến tìm ra cách giải bài toán. Với cách làm này học sinh mạnh dạn, tự tin vào bản thân, dần dần ham thích giải toán, để thể hiện khả năng chính mình.
 Vai trò của người thầy rất quan trọng. Lời phát biểu của các em dù đúng hay sai, tôi cũng phải có lời động viên hợp lý. Nếu học sinh phát biểu sai, hoặc chưa đúng, tôi động viên "gần đúng rồi, em cần suy nghĩ thêm nữa, thì sẽ đúng hơn ..." giúp các em cố gắng suy nghĩ làm bằng được, chứ không nên nói "sai rồi, không đúng ..." làm mất hứng, ức chế học sinh làm học sinh tự ti, chán học. 
Bước này là bước quan trọng giúp học sinh không sợ giải toán, thích thi nhau làm để khẳng định mình, từ đó có kỹ năng giải toán vững chắc với lời giải thông thường.
Ví dụ 1:  Trên sân có 14 con gà, số vịt nhiều hơn số gà là 5 con. Hỏi trên sân có bao nhiêu con vịt? ( Bài 2 - Trang 51 - SGK Toán 2 – Kết nối tri thức với cuộc sống)
+ Có học sinh giải như sau : 
 Trên sân có số con vịt là :
 14 + 5 =  19 (trên sân)
 Đáp số : 19 trên sân
Tôi hỏi : Đơn vị của bài toán là gì ? 
Học sinh trả lời : Đơn vị của bài toán là con. 
Tôi hỏi : Vậy trong bài giải con đã ghi đúng tên đơn vị của bài toán chưa? Con hãy nêu lại câu hỏi của bài toán?
Lúc này học sinh sẽ nhận ra chỗ thiếu sót trong bài giải của mình và tự sửa lỗi sai đó.
Ví dụ 2: Thùng thứ nhất đựng 25 lít dầu. Thùng thứ hai đựng 30 lít dầu. Hỏi thùng nào đựng nhiều dầu hơn và nhiều hơn bao nhiêu lít ? 
Có học sinh giải như sau : 
    Số lít dầu thùng đựng nhiều hơn là :
                                            30 - 25 = 5 ( l )
                                                Đáp số : 5 l 
Tôi hỏi: Ta cần tìm điều gì ?
Học sinh trả lời: Thùng nào đựng nhiều hơn và nhiều hơn bao nhiêu lít ?
Tôi lại hỏi tiếp: Câu trả lời này đã nói rõ điều đó chưa ? Còn thiếu ý nào ? 
Lúc này học sinh sẽ nhận ra trong câu trả lời này chưa nêu được thùng nào đựng nhiều hơn và phải bổ sung và chữa vào bài giải là : 
                                   Thùng thứ hai đựng nhiều hơn và nhiều hơn là : 
 30 - 25 = 5 ( l )
                                                       Đáp số : 5 l 
 Bên cạnh việc cung cấp đủ trọng tâm bài học, rèn cách luyện tập thành thạo, tôi còn luôn quan tâm tới việc mở rộng, nâng cao kiến thức từ chính những bài tập trong SGK, vở bài tập toán, vở luyện tập Toán. 
    4.3. Dạy học sinh nắm vững kiến thức sách giáo khoa và nâng cao kiến thức cho học sinh:
Thông thường giáo viên chỉ chú ý tới việc học sinh làm đủ, làm đúng các bài tập trong SGK, vở bài tập theo quy định của tiết học, nên đôi khi gặp những trường hợp khác lạ là học sinh lúng túng vì quen giải theo khuôn mẫu, ít tư duy tìm tòi sáng tạo.
 Vì thế để học tốt giải toán 2, tôi luôn tìm cách mở rộng ngay sau một bài tập nào đó trong số bài luyện vào buổi chiều, tuy nhiên ở mức độ hợp với trình độ học sinh trong lớp, các đối tượng tiếp thu được.
 Khi học sinh làm đủ 100% số bài tập quy định chưa hẳn là đã thành thạo cách giải loại toán đó, nhất là học sinh trung bình, yếu. Vì vậy, tôi đã cố gắng đưa nội dung kiến thức vào bài tập thật phong phú, đa dạng dựa vào bài tập có sẵn, vẫn xoay quanh nội dung bài vừa học hoặc vừa luyện. Bài toán đưa ra các hình thức khác nhau, tôi khai thác được tư duy của học sinh. Các dạng toán có thể thực hiện được điều này như.
 * Dạng toán về nhiều hơn, ít hơn một số đơn vị
- Giúp học sinh nhận ra những dấu hiệu cơ bản của từng dạng toán:
	+ Dạng toán "nhiều hơn" dấu hiệu để nhận ra đó là các từ "chìa khóa" như: "nhiều hơn"; "cao hơn"; "dài hơn"; "nặng hơn"...
	+ Dạng toán "ít hơn" dấu hiệu để nhận ra đó là các từ "chìa khóa" như : "ít hơn"; "thấp hơn"; "kém"; "nhẹ hơn" “ ngắn hơn” ...
- Bên cạnh đó khi hướng dẫn học sinh làm các bài toán nâng cao giáo viên phải hướng dẫn học sinh hiểu được bản chất của bài toán, khắc sâu kiến thức về giải toán cho học sinh, tránh hiện tượng học sinh làm bài một cách máy móc theo mẫu (thấy "nhiều hơn" thì làm phép cộng, "ít hơn" thì làm phép trừ...).
 Sau đây là các bài toán nâng cao tôi hướng dẫn học sinh:
 Bài toán 1 : Sợi dây màu xanh dài 35 cm, sợi dây màu xanh ngắn hơn sợ dây màu đỏ 20 cm. Hỏi sợi dây màu đỏ dài bao nhiêu xăng – ti – mét ? ( Sách tham khảo)
+ Để giải được bài này, tôi hướng dẫn học sinh phải hiểu rõ yêu cầu của bài toán. Đã biết sợi dây màu xanh dài 35 cm mà sợi dây màu xanh lại ngắn hơn sợi dây màu đỏ 20 cm. Lúc này học sinh sẽ hiểu là sợi dây màu đỏ dài hơn sợi dây màu xanh. Muốn tìm sợi dây màu đỏ dài bao nhiêu ta phải làm thế nào? (Tính cộng)
 + Học sinh phải tự phân tích đề toán và giải : 
                                        Sợi dây màu đỏ dài là : 
35 + 20 = 55 ( cm)
                                               Đáp số : 55 cm
Với việc mở rộng kiến thức này, học sinh sẽ linh hoạt hơn khi giải toán không nhất thiết cứ nhiều hơn là phải làm tính cộng.
Bài toán 2: Bao thứ nhất đựng được 25 kg gạo, như vậy bao thứ nhất đựng ít hơn bao thứ hai 8 kg gạo.(Sách tham khảo)
Tính số gạo của bao thứ hai.
Cả hai bao đựng bao nhiêu ki –lô- gam gạo?
Giáo viên hướng dẫn học sinh giải từng phần của bài toán.
Tính số gạo của bao thứ hai.
 Bài toán đã biết yếu tố gì ? (Số gạo của bao thứ nhất và biết bao thứ nhất đựng ít hơn bao thứ hai 8 kg). Giáo viên giảng cho học sinh hiểu bao thứ nhất đựng ít hơn bao thứ hai 8 kg  nghĩa là bao thứ hai đựng nhiều hơn bao thứ nhất 8 kg.Vậy tìm số gạo của bao thứ hai ta phải làm như thế nào?
Học sinh nêu được cách làm như sau
 Bao thứ hai đựng số gạo là : 
                                       25 + 8 = 33( kg)
                                        Đáp số: 33 kg
* Đối với học sinh khá, giỏi sẽ làm nhanh hơn, vì vậy tôi đã mở rộng bài tập này cho học sinh khá giỏi. Tuy nhiên cũng có thể có những học sinh trung bình giải quyết được, tôi rất khuyến khích. Như vậy, trong cùng một khoảng thời gian dù học sinh trung bình giải được phần này, vẫn còn một phần bài tập tiếp theo để học sinh khá, giỏi giải tiếp.
Đối với học sinh giỏi tôi có thể nêu thêm:
b. Cả hai bao đựng bao nhiêu ki –lô- gam gạo?
- Giáo viên hỏi học sinh: Muốn tìm cả hai bao nặng bao nhiêu ta làm thế nào?
- Học sinh nêu làm tính cộng lấy số gạo của bao thứ nhất cộng với số gạo của bao thứ hai.
Học sinh nêu được cách làm như sau:
 Cả hai bao đựng số gạo là : 
                                       25 + 33 = 58( kg )
                                        Đáp số: 58 kg
4.4. Hướng dẫn học sinh cách trình bày bài giải.
 	Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài, tóm tắt và tìm được cách giải thì việc hướng dẫn học sinh trình bày bài giải cũng rất quan trọng. 
- Giáo viên hướng dẫn học sinh nêu được lời giải đúng, phép tính đúng, cách ghi tên đơn vị và đáp số đúng.
 - Giáo viên hướng dẫn học sinh nêu câu trả lời cần ngắn gọn, chính xác và đúng nội dung câu hỏi của bài toán. Tìm phép tính gì? theo 3 bước:
Bước 1: Viết câu lời giải - Bước 2: Viết phép tính - Bước 3: Viết đáp số.
 (Với bài toán đơn giải bằng 1 phép tính)
 Lời giải - Phép tính - Lời giải - Phép tính - Đáp số.
(Với bài toán giải bằng 2 phép tính).
Lưu ý học sinh
- Viết phép tính: Phép tính phải viết theo hàng ngang, không được viết theo cột dọc. Không viết đơn vị kèm theo trong các phép tính mà chỉ viết đơn vị vào sau kết quả phép tính và đặt trong dấu ngoặc đơn. 
- Viết đáp số: Đáp số viết ở cuối bài giải, bài toán có bao nhiêu câu hỏi thì có bấy nhiêu đáp số, chỉ ghi 1 lần từ “đáp số”. Đáp số phải ngắn gọn và đủ ý trả lời cho câu hỏi của bài toán. 
Ví dụ 1: Tòa nhà có 60 căn phòng. Có 35 căn phòng đã bật đèn. Hỏi còn bao nhiêu căn phòng chưa bật đèn? 
( Bài 3 – Trang 93 – Sách Toán 2 – Kết nối tri thức với cuộc sống)
Gọi 2-3 học sinh đọc đề bài.
Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì?
Giáo viên nhấn mạnh 60 căn phòng là tất cả số phòng đã bật đèn và chưa bật đèn. Trong 60 căn phòng đó có 35 căn phòng đã bật đèn. Muốn tìm số căn phòng chưa bật đèn ta phải làm thế nào? 
- Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán. 
+ Chữ tóm tắt lùi vào 4 ô li so với lề.
+ Đầu mỗi dòng tóm tắt cái cho, cái hỏi lùi vào 2 ô so với lề.
+ Cuối câu hỏi phần tóm tắt ghi dấu hỏi chấm.
 Tóm tắt:
Tòa nhà có: 60 căn phòng
Đã bật đèn: 35 căn phòng
Chưa bật đèn:  căn phòng?
Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn chính xác và trình bày bài giải như sau:
 + Câu lời giải lùi vào 1 ô li so với lề
 + Phép tính lùi vào 3 ô li so với lề 
 + Đáp số lùi vào 5 ô li so với lề 
 Bài giải
 Tòa nhà còn số căn phòng chưa bật đèn là:
 60 – 35 = 25 (căn phòng )
 Đáp số : 25 căn phòng
Ví dụ 2: Con lợn thứ nhất nặng 118kg. Con lợn thứ hai nhẹ hơn con lợn thứ nhất 7kg. Hỏi: 
a) Con lợn thứ hai nặng bao nhiêu ki-lô-gam? 
b) Cả hai con lợn nặng bao nhiêu ki-lô-gam? 
(Bài 239 – trang 39 - Toán nâng cao lớp 2) 
 Bài giải:
 a. Con lợn thứ hai nặng số ki-lô-gam là: 
– 7 = 111(kg)
 b. Cả hai con lợn nặng số ki-lô-gam là: 
 118 + 111 = 229 (kg)
 Đáp số: a) 111 kg
 b) 229 kg 
- GV lưu ý học sinh cách viết đơn vị tính chỉ viết dấu ngoặc đơn ở phép tính Còn ở đáp số không phải viết dấu ngoặc đơn...
4.5. Hướng dẫn học sinh tìm lời giải khác. 
 	- Giáo viên tìm những câu hỏi dễ hiểu, hướng dẫn gợi mở, giúp học sinh tìm ra những câu trả lời khác cho lời giải của bài toán để phát huy trí lực học sinh tạo điều kiện cho tư duy toán phát triển. 
Ví dụ: Một cửa hàng điện máy, buổi sáng bán được 11 máy tính, buổi chiều bán được ít hơn buổi sáng 3 máy tính. Hỏi buổi chiều cửa hàng bán được bao nhiêu máy tính? ( Bài 4 – Trang 126 – Sách Toán 2 – Kết nối tri thức với cuộc sống)
Giáo viên phải yêu cầu học sinh đọc kỹ đầu bài toán. Tóm tắt đầu bài bằng lời hoặc cách vẽ sơ đồ để tìm ra cách giải đúng và nhiều cách khác. 
Tóm tắt
Buổi sáng : 11 máy tính
Buổi chiều ít ít hơn : 3 máy tính
Buổi chiều :  máy tính?
11 máy tính
3 máy tính
Hoặc Buổi sáng
?máy tính
 Buổi chiều
 Bài giải
Bài giải
Buổi chiều của hàng bán được số máy tính là:
 11 – 3= 8 ( máy tính )
 Đáp số: 8 máy tính 
- GV hỏi thêm ngoài câu trả lời trên con còn có câu trả lời nào khác không? Để khắc sâu liến thức cho học sinh.
Có em sẽ giải như sau : 
Số máy tính buổi chiều cửa hàng bán được là:
 11 – 3 = 8 ( máy tính )
 Đáp số: 8 máy tính 
- Giáo viên có thể hỏi học sinh: Con thấy hai câu trả lời này có gì khác nhau không? ( Không khác nhau vì hai câu trả lời này cùng trả lời số máy tính của buổi chiều)
 Các em phải chú ý tên đơn vị của mỗi phép tính. Từ đó học sinh tìm được cách giải toán triệt để bằng nhiều cách đặt lời giải khác nhau. Học sinh nắm chắc đề toán, hiểu kỹ đề, để tìm cách giải khác có lời văn chính xác, phát triển tư duy toàn diện. 
4.6. Rèn luyện kỹ năng tính toán giúp học sinh giải toán chính xác tránh nhầm lẫn khi tính toán. 
 - Có những em nắm được cách giải đúng nhưng khi tính toán lại sai dẫn đến kết quả bài toán sai. Vậy tôi phải nhắc nhở học sinh khi làm bài phải tính toán chính xác, trình bày khoa học rõ ràng.
 - Nếu là phép cộng, trừ trong bảng học thuộc thì vận dụng để tìm nhanh. Nếu là các ph

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_huong_dan_day_giai_ba.doc