Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán Lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán Lớp 2

- Chương trình đã được giảng dạy nhiều năm. Giáo viên đã có những kinh nghiệm giảng dạy, đã được thao giảng và dự giờ chuyên đề về môn toán, có sự trao đổi, rút ra kinh nghiệm các tiết dạy.

- Cơ sở vật chất trường đủ đảm bảo việc học tập cho các em. Đa số học sinh có ý thức học tốt, được cha mẹ quan tâm chu đáo. Riêng bản thân tôi luôn tự nghiên cứu, tìm tòi, đọc sách, tài liệu tham khảo và học hỏi, rút kinh nghiệm từ đồng nghiệp để vận dụng tốt các phương pháp dạy học tích cực sao cho đạt hiệu quả cao nhất và tạo hứng thú, niềm say mê học tập cho học sinh trong giờ toán.

 

docx 14 trang Trần Đại 28/04/2023 21117
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHỤ LỤC
I. Sơ lược lý lịch tác giả Trang 2	
II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị	Trang 2	
 - Tên sáng kiến 	Trang 2
 - Lĩnh vực 	Trang 2 - 3
III. Mục đích, yêu cầu của sáng kiến 	Trang 3
 1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến 	Trang 3
 2. Sự cần thiết áp dụng sáng kiến 	Trang 4
 3. Nội dung sáng kiến 	Trang 4
 3.1 Thời gian thực hiện 	Trang 4
 3.2 Tiến trình thực hiện 	Trang 4
 3.3 Biện pháp tổ chức 	Trang 5
 3.3.1. Phép cộng có nhớ trong phạm vi 100 Trang 6 - 8
 3.3.2. Phép trừ có nhớ trong phạm vi 100 Trang 8 - 9
 3.3.3. Về tính giá trị biểu thức Trang 9 
 3,3,4. Bài tập dạng tìm Trang 9 - 11
IV. Hiệu quả đạt được Trang 11 - 12 
V. Mức độ ảnh hưởng Trang 12 - 13
VI. Kết luận chung Trang 13 - 14 
	PHÒNG GD- ĐT TÂN CHÂU	CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
	TRƯỜNG TH B LONG AN 	 Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
 Long An, ngày 04 tháng 12 năm 2018
BÁO CÁO
KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN; MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2
I. Sơ lược lý lịch tác giả:
Họ và tên: Liêu Đức Trí 	- Nam, nữ: Nam
Ngày tháng năm sinh: 26/07/1965
Nơi thường trú: ấp B2, xã Long An, thị xã Tân Châu tỉnh An Giang
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học B Long An, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang
Chức vụ hiện nay: Giáo viên dạy lớp 
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm
Linh vực công tác: Giáo viên Tiểu học
II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị:
* Đặc điểm tình hình:
Năm học 2018 – 2019, tôi được Ban giám hiệu phân công dạy lớp 2B, với sỉ số là 24 học sinh. Trong đó có 15 em nam và 9 em nữ. Trong 2 tuần đầu làm quen với các em, tôi nhận thấy hầu hết các em học sinh là vùng nông thôn nên cha mẹ ít quan tâm đến mọi mặt của con cái, nhất là sức khỏe và học tập. Bên cạnh đó số đông học sinh con nông dân, nhiều em cha mẹ làm ăn xa,sống ở nhà với ông bà. Với đặc điểm lớp tôi như thế nên có một số thuận lợi và khó khăn như sau:
1. Thuận lợi:
- Chương trình đã được giảng dạy nhiều năm. Giáo viên đã có những kinh nghiệm giảng dạy, đã được thao giảng và dự giờ chuyên đề về môn toán, có sự trao đổi, rút ra kinh nghiệm các tiết dạy.
- Cơ sở vật chất trường đủ đảm bảo việc học tập cho các em. Đa số học sinh có ý thức học tốt, được cha mẹ quan tâm chu đáo. Riêng bản thân tôi luôn tự nghiên cứu, tìm tòi, đọc sách, tài liệu tham khảo và học hỏi, rút kinh nghiệm từ đồng nghiệp để vận dụng tốt các phương pháp dạy học tích cực sao cho đạt hiệu quả cao nhất và tạo hứng thú, niềm say mê học tập cho học sinh trong giờ toán.
- Số lượng học sinh tương đối vừa phải, học sinh có đủ các điều kiện để học tập.
2. Khó khăn:
- Một số học sinh, chủ yếu cha mẹ là nông dân, làm mướn, làm ăn xa. nên không có điều kiện quan tâm tới việc học tập của các em.
Đa số các em chưa có ý thức tự giác về việc học. Việc học tập của các em cần phải có người nhắc nhở.
+ Một số phụ huynh còn coi nhẹ việc học tập của con em.
+ Thời gian học tập của các em còn hạn chế, các em còn ham chơi hơn ham học.
+ Một số em chưa nắm được kiến thức về thực hành phép công.trừ có nhớ, giải toán có lời văn thiếu chính xác nên thường làm toán sai.
- Với những thuận lợi và khó khăn như vậy tôi đã tìm ra một số biện pháp nhằm giúp các em học tốt phân môn toán.
Tên Sáng Kiến: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2
- Lãnh vực: Chuyên môn
III. Mục đích yêu cầu của sáng kiến
- Trong cuộc sống hằng ngày, khi nói về tầm quan trọng của phép tính, ông bà ta thường nhắc đến câu tục ngữ: “Sai một li, đi một dậm”. Thật vậy, nếu như kiến thức môn văn giúp cho học sinh giao tiếp nói năng hiệu quả thì kiến thức môn toán lại giúp cho các em vận dụng bổ ích vào những việc như: xây nhà, bắt cầu, mua bán,  Vì vậy, việc dạy học toán ở nhà trường tiểu học rất quan trọng. Học sinh học tốt môn toán sẽ góp phần thực hiện thành công mục tiêu giáo dục tiểu học. Nó là nền tảng giúp học sinh học tốt các môn học khác, đồng thời tạo đà thuận lợi để học tiếp lên các lớp trên.
- Tuy vậy, trong thực tế nhiều năm dạy học khối lớp 2, năm nào tôi cũng gặp phải hiện tượng học sinh học chưa tốt môn toán. Vấn đề này hầu như có đều ở các khối lớp chứ không riêng gì khối lớp 2. Nó làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy học nói chung. Cho nên, cần phải có những biện pháp để khắc phục tình trạng trên. Tôi liền đổi mới nội dung, phương pháp dạy học năm học 2017-2018, 2018 - 2019 tôi đã thực hiện đề tài này cho thấy kết quả dạy học đã được nâng lên, bước đầu khuyến khích học sinh học tốt hơn. Qua hai năm thử nghiệm bổ sung nhiều thiếu sót, đúc kết rút kinh nghiệm, năm học 2018 - 2019 tôi tiếp tục vận dụng đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 2” trong giảng dạy môn toán 2, nhằm trang bị cho học sinh một tư duy mới, một phương pháp mới khoa học và ưu việt.
1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dung sáng kiến
- Dạy toán lớp 2 nhằm giúp học sinh bước đầu có một số kiến thức cơ bản về phép cộng, phép trừ có nhớ trong phạm vi 100, biết khái niệm về phép nhân, chia, tính giá trị biểu thức số có 2 phép tính, làm các bài tập dạng tìm thành phần chưa biết của phép tính, giải toán có lời văn
- Từ kinh nghiệm giảng dạy môn toán trong nhiều năm qua, tôi nhận thấy một số em học chưa tốt môn toán thường gặp nhiều khó khăn ở các dạng bài như sau:
(1) Cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100.
(2) Tìm thành phần chưa biết của phép tính.
(3) Giải toán có lời văn.
(4) Tính giá trị biểu thức.
- Đây là những kiến thức quan trọng. Đối với những học sinh học tốt, các em nắm chắc các quy tắc tính và thuộc lòng các bảng cộng, bảng trừ, nên hiệu quả làm bài đạt rất cao. Còn đối với những học sinh học còn chậm thì sao? Các em này không thuộc bảng cộng, bảng trừ nên các em lúng túng trông chờ vào bạn.
- Thực tế dạy học nhiều năm, tôi thấy một số học sinh học chưa tốt môn toán thường xuyên không làm được bài tập, hoặc làm sai kết quả các bài tính và đặt tính, tính giá trị biểu thức; các dạng bài tìm thành phần chưa biết của phép tính và giải toán có lời văn cũng sai không ít. Khi kiểm tra, giáo viên phát hiện nhắc nhở, yêu cầu học sinh phải thuộc bảng cộng, bảng trừ, các quy tắc tìm thành phần chưa biết của phép tính. Việc nhắc nhở đó ít khi có kết quả đối với đối tượng học sinh học hay quên.
- Giáo viên thực hiện đầy đủ các yêu cầu của tiết dạy, tăng cường luyện tập thực hành, hình thành kĩ năng toán học cho học sinh, song số lượng học sinh học chưa tốt môn toán ở mỗi khối lớp vẫn không ít.
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến
- Các khái niệm và các quy tắc về toán trong sách giáo khoa, nói chung đều được giảng dạy thông qua bài tập. Giúp học sinh củng cố, vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán. Đồng thời qua việc thực hiện các phép tính của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm hoặc thiếu sót của các em về kiến thức, kỹ năng và tư duy để giúp các em phát huy những ưu điểm khắc phục thiếu sót.
- Việc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện thông qua việc cho học sinh tính toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống một cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kỹ năng thực hành cần thiết trong đời sống hàng ngày, giúp các em biết vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống.
- Việc tính toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực. Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý chí vượt khó, đức tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo v.v
- Từ kinh nghiệm giảng dạy môn toán trong nhiều năm qua, tôi nhận thấy một số em học chưa tốt môn toán thường gặp nhiều khó khăn. Là một giáo viên có tâm huyết với nghề, ai mà không lo lắng, trăn trở. Với tôi cũng vậy, câu hỏi: “Làm thế nào để học sinh học tốt môn toán?” cứ thường trực trong tôi sau mỗi giờ lên lớp.
- Từ đó, nó thôi thúc tôi phải tìm tòi, nghiên cứu, tìm ra giải pháp khác. Cuối cùng tôi đã tìm tòi và thử nghiệm một số biện pháp giúp học sinh học tốt Toán lớp 2. (Làm thế nào cả lớp đều hiểu và làm được bài tập theo chuẩn kiến thức kỹ năng cần đạt. Qua thời gian dài tìm hiểu và tiến hành thử nghiệm các biện pháp, cuối cùng tôi đã tìm ra kết quả là các em đã từng bước có tiến bộ. Thế là tôi quyết định thực hiện một vài biện pháp để hỗ trợ các em học toán theo cách ghi nhớ khác và đã đạt được một số thành tích tốt.
3. Nội dung sáng kiến
3.1. Thời gian thực hiện:
Việc dạy vả học của học sinh khối 2 trường Tiểu học B Long An năm học 2017-2018 và từ năm học 2018-2019 đến nay.
3.2.Tiến trình thực hiện:
Để đạt được kết quả theo yêu cầu của ngành, cũng như sự mong muốn của bản thân. Tôi tiến hành thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Đầu năm học tôi tranh thủ xem lại hồ sơ lý lịch của học sinh, tìm hiểu qua giáo viên chủ nhiệm năm trước và bạn bè trong lớp học, gặp và trao đổi với phụ huynh học sinh. Từ đó tôi nắm được sơ bộ về hoàn cảnh gia đình năng lực học tập và luôn cả cá tính của từng em. Tất cả những gì tìm hiểu được tôi đều ghi vào sổ tay theo dõi riêng. Đánh dấu (*) cần chú ý một số em cá biệt để tiện theo dõi.
- Việc sắp xếp chỗ ngồi cũng góp phần không nhỏ trong việc năng cao chất lượng. Tôi sắp xếp những em học tốt ngồi cạnh những em học chưa tốt để các em có điều kiện giúp đỡ nhau trong quá trình học tập.
- Đối với học sinh lớp 2 là độ tuổi “ăn chưa no lo chưa tới” hay quên. Nên khi cần cho học sinh ghi nhớ vấn đề nào đó, tôi hay dùng những cụm từ ngắn gọn gần gũi thực tế để các em dể nhớ.
- Việc ôn lại kiến thức cũ cũng góp phần khá quan trọng trong việc học toán. Nên ở cuối lớp học tôi tạo cho các em một góc học tập có ghi lại các nội dung cần thiết để các em ôn luyện.
- Trong tiết dạy tôi luôn sử dụng đầy đủ các thiết bị dạy học một cách hợp lý và hiệu quả, tổ chức thi đua, vui chơi Bên cạnh đó, tôi thường xuyên quan tâm gần gũi chỉ dạy học sinh nắm bài chậm trong từng tiết học, giờ ra chơi, cuối buổi học,  luôn tạo không khí vui tươi, cởi mở, tạo điều kiện cho hoc sinh phấn khởi khi đến lớp, hứng thú trong học tập. Đặc biệt đối với học sinh học chưa tốt, tôi quyết tâm không bao giờ để các em ngồi bên lề lớp học, quan tâm khích lệ đến những thành tích dù nhỏ nhất của các em. Tôi luôn xử sự khéo léo để các em không mặc cảm.
- Xây dựng cho các em có nề nếp tự học ở lớp cũng như ở nhà.
- Tùy theo mức độ của học sinh. Tôi có một số biện pháp phù hợp để giúp đỡ các em chiếm lĩnh kiến thức một cách hiệu quả nhất.
- Bất cứ tiết học nào cũng có một số bài tập để củng cố, thực hành trực tiếp các kiến thức mới, tôi vừa giúp học sinh nắm chắc kiến thức kĩ năng cơ bản nhất vừa hình thành được phương pháp học tập cho các em.
- Cùng với việc đổi mới về cấu trúc, nội dung sách giáo khoa, trong mỗi tiết học tôi tổ chức hướng dẫn học sinh hoạt động học tập giúp các em nắm được kién thức cơ bản của tiết học, khuyến khích học sinh tìm ra kết quả bằng nhiều cách.Đồng thời hình thành và rèn cho học sinh các kĩ năng thực hành, đặc biệt là kĩ năng tính và giải quyết vấn đề thông qua các bài tập từ dễ đến khó, giúp học sinh khắc sâu kiến thức thấy được sự đa dạng và phong phú của các bài tập, từ đó tập cho học sinh thói quen khai thác nội dung tiềm ẩn trong từng bài tập, lựa chọn cách giải tốt nhất cho bài làm của mình, vận dụng trong đời sống một cách chủ động, linh hoạt và sáng tạo.
3.3/ Biện pháp tổ chức:
3.3.1. Phép công có nhớ trong phạm vi 100
* Biện pháp 1:
+ Chuẩn bị đồ dùng dạy học: Đây là biện pháp tối ưu trong tiết dạy. Nếu giáo viên thiếu sự chuẩn bị thì kết quả tiết dạy không cao. Khi sử dụng đồ dùng dạy học phải phù hợp với từng tiết học, mới đạt hiệu quả như mong muốn. Bên cạnh, nó làm tiết dạy thêm sinh động.
Ví dụ:
29 + 5 = ?
- Giáo viên chuẩn bị:
+ 3 thẻ bó chục, 14 que tính rời, thước kẻ, phấn màu.
- Học sinh chuẩn bị:
+ Que tính, thước kẻ.
- Giáo viên giới thiệu bài toán: có 29 que tính, thêm 5 que tính nữa. Hỏi tất cả có bao nhiêu que tính ?
- Nhằm bước đầu giúp học sinh tìm kết quả bằng cách thao tác que tính. Giáo viên nêu và thể hiện các hình ảnh minh hoạ thao tác trên que tính như (Sách giáo khoa).
* Biện pháp 2:
- Hình thành “quy tắc tính” gồm 2 bước: Đặt tính và tính. Yêu cầu học sinh biết cách thực hiện phép tính và thuộc quy tắc tính.
Ví dụ 1: 
 29	9 cộng 5 bằng 14, viết 4 nhớ 1
	 + 5	 2 thêm 1 bằng 3, viết 3 
 34
	Vậy 29 + 5 = 34
- Quy tắc tính rõ ràng như thế nhưng vẫn còn một số em làm sai. Vì các em không thuộc bảng cộng hay thuộc rồi lại quên.
- Tôi bắt đầu dùng cách khác để giúp các em có thể tính đúng. Đó là cách:
- Dùng que tính đếm thêm 1 cho đến hết.
Ví dụ 2: 
9 + 5 = ?
(9 thêm 1 bằng 10, 10 thêm 1 bằng 11, 11 thêm 1 bằng 12, 12 thêm 1bằng 13, 13 thêm 1 bằng 14). Vậy 9 + 5 = 14
- Sau đó tiến tới bước tính dọc (đây là bước tôi thực hiện trong 2 năm qua).
Ví dụ3:
 	29
	 + ●5
	34
- Yêu cầu học sinh lấy 9 que tính rồi đếm thêm 1 đến hết 5 que tính nữa được 14 que tính, viết 4 nhớ 1, ghi dấu chấm (●) trước số 5 (● xem như 1) để khi tính bước tiếp theo 2 gặp (●) nhớ cộng thêm 1 bằng 3 viết 3
Ví dụ 4:
	28
	 +●14
	42	
- Học sinh lấy 8 que tính, rồi đếm thêm 1 đến hết 4 que tính nữa được 12, viết 2 nhớ 1, ghi dấu chấm (●) trước số 1 (● xem như 1), để khi tính bước tiếp theo 2 cộng 1 bằng 3 gặp (●) cộng thêm 1 bằng 4 viết 4.
- Tiến hành tương tự với các bài còn lại.
* Lưu ý:
- Làm sao có thể biết bài tính có nhớ hay không nhớ ?
- Cho học sinh lấy 2 chữ số ở hàng đơn vị cộng lại, nếu kết quả nhỏ hơn 10 là tính không nhớ. Kết quả bằng 10 hoặc lớn hơn 10 ta chỉ viết chữ số sau cùng và nhớ 1 ở hàng chục.
Ví dụ 1:
	28
	 + 11
	 9 
- (8 cộng 1 bằng 9 viết 9 thẳng cột với 8 và 1, không nhớ).
Ví dụ 2:
 36
 + ●24
 0 
(6 cộng 4 bằng 10 chỉ viết chữ số 0 thẳng cột với 6 và 4 nhớ 1).
Ví dụ 3:
 28
 + ●14
 2
(8 cộng 4 bằng 12 chỉ viết chữ số 2 thẳng cột với 8 và 4 nhớ 1).
* Biện pháp 3:
- Trong giai đoạn đầu học sinh mới tiếp cận với loại phép tính có nhớ. Nên tôi thường khắc sâu quy tắc tính cho học sinh bằng cách nêu quy tắc tính nhiều lần.
- Để học sinh hứng thú học tôi luôn thay đổi các hoạt động học như: làm bảng con, làm vở bài tập, bảng cài, bảng lớp, thi đua, trò chơi Ngoài những hoạt động trên, tôi không quên dạy theo phân hoá đối tượng học sinh. Đây là chủ trương của ngành. Muốn sử dụng biện pháp này tốt, người dạy học phải chuẩn bị kỹ bài giảng, đồng thời phải cho bài tập phù hợp với từng đối tượng Học sinh.
3.3.2. Phép trừ có nhớ trong phạm vi 100
- Đối với phép trừ có nhớ ta cũng thực hiện qua 3 biện pháp (Biện pháp 1, biện pháp 3) thực hiện như trên.
* Biện pháp 1:
- Tôi hướng dẫn:
Ví dụ 1: 
 52
	 -●8
	 44
- Yêu cầu học sinh so sánh nhẩm 2 nhỏ hơn 8, nên 2 không trừ được 8, lấy 12 trừ 8 bằng 4, viết 4 nhớ 1. Ghi (●) trước số 8, (● xem như 1) để khi tính bước tiếp theo 5 găp (●) nhớ trừ 1 bằng 4 viết 4.
- Học sinh nắm bài chậm vẫn còn lúng túng vì chưa thuộc bảng trừ. Nên tôi hướng dẫn bằng cách lấy bớt đi que tính như sau:
Ví dụ 2: 
 52
	 -●8
	 44
- 2 nhỏ hơn 8 lấy thêm 1 chục được 12 trừ 8 (bằng cách lấy 12 que tính bớt 8 que tính còn 4 que tính) viết 4 nhớ 1 (ghi ● trước số 8) dấu (●) xem như 1. (Khi thực hiện bước tính tiếp theo 5 găp (●) nhớ trừ 1 bằng 4 viết 4.
Ví dụ 3:
	52
	 -●28
	24
- 2 nhỏ hơn 8 lấy thêm 1 chục được 12 trừ 8 (bằng cách lấy 12 que tính bớt 8 que tính còn 4 que tính) viết 4 nhớ 1 (ghi ● trước số 1) dấu (●) xem như 1. (Khi thực hiện bước tính tiếp theo ta nhớ thêm 1 vào chữ số vừa chấm rồi mới tiến hành trừ và ghi kết quả thẳng cột với cột chục). 2 thêm 1 bằng 3, 5 trừ 3 bằng 2, viết 2.
- Qua 3 ví dụ trên tôi khắc sâu cho học sinh nhớ: chữ số ở hàng đơn vị của số bị trừ là “mấy” ta sẽ lấy “mười mấy”để trừ (là số 2 lấy 12, là số 3 lấy 13, là số 4 lấy 14, là số 5 lấy 15).
- Trong trường hợp học sinh còn lẫn lộn “lấy số lớn ở dưới trừ ngược số nhỏ ở trên”. Tôi sẽ khắc sâu cho các em “lấy số trên trừ số dưới” và “trừ từ phải sang trái”.
- Nếu còn học sinh làm chưa được tôi hướng dẫn thêm cách khác: Tôi cho các em làm bài trên giấy nháp rồi sau đó mới ghi vào tập hoặc giấy kiểm tra (không ghi chữ số khoanh tròn và các vạch thẳng).
Ví dụ:
Bước 1: 
	52	ﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍ
	 -●28 
4	vạch 12 vạch rồi bỏ 8 vạch còn 4 vạch, viết 4 nhớ 1, ghi (●) trước số 2
Bước 2:
ﺍﺍﺍﺍﺍ	 52 2 gặp (●) thêm 1 được 3 viết ƒ. 
	-l●28
	 24 Vạch 5 vạch, rồi bỏ 3vạch còn 2 vạch, viết 2 ở cột chục của bài toán. 
3.3.3. Về tính giá trị biểu thức
- Khi gặp dạng toán này học sinh thường lúng túng không biết làm phép tính nào trước hoặc làm 1 phép tính mà thôi. Đối với loại toán này tôi thường nhấn mạnh cho học sinh nhận biết biểu thức có mấy phép tính? (2 phép tính). Ta thực hiên theo 2 lần tính. Thứ tự thực hiện từ trái sang phải và gạch dưới phép tính thực hiện trước để học sinh dể tính.
Ví dụ: 3 x 3 + 6 = 9 + 6 *3 nhân 3 bằng 9 viết 9. Lấy 9 cộng 6 bằng 
 = 15 15 viết 15.
 25 : 5 – 3 = 5 – 3 *25 chia 5 bằng 5 viết 5.Lấy 5 trừ 3 bằng 2 
 = 2 viết 2.
3.3.4. Bài tập dạng tìm x
- Khi dạy các bài này, yêu cầu học sinh dựa vào mối quan hệ giữa thành phần tên gọi, kết quả phép tính và quy tắc tính để tìm x. Nhưng khi làm bài các em không nhớ được quy tắc tính, nên tôi hình thành một cách nhớ riêng:
* Dạng x+a = b (Gặp phép tính cộng ta thực hiện tính trừ
a + x = b (Lấy số lớn trừ số bé).
Nêu quy tắc muốn tìm số hạng chưa biết ta lấy tổng trừ đi số hạng đã biết.
Ví dụ 1: x + 7 = 10
X = 10 – 7 (10 là số lớn, 7 là số bé).
X = 3
Ví dụ 2: 5 + x = 12
 x = 12 - 5 (12 là số lớn, 5 là số bé).
 X = 7
* Dạng x - a = b
 a – x = b
tìm x với phép tính trừ (-). Ta quan sát xem x đứng trước dấu trừ hay đứng sau dấu trừ (-). Nếu x đứng trước dấu trừ ta thực hiện tính cộng (+). Nếu x đứng sau dấu trừ ta thưc hiện tính trừ (-), hoặc là cho học sinh thuộc câu “trước cộng sau trừ”.
Ví dụ 1:
Nêu quy tắc muốn tìm số bị trừ chưa biết ta lấy hiệu cộng với số trừ.
x – 6 = 3 (Lấy số đứng sau dấu bằng cộng số đứng trước dấu bằng).
 X = 3 +6
 X = 9
Ví dụ 2:
- Nêu quy tắc muốn tìm số trừ chưa biết ta lấy số bị trừ trừ số hiệu.
9 – x = 5 (Lấy số lớn trừ số bé).
 X = 9 – 5
 X = 4
* Dạng a x X = b
 X x a = b 
- Gặp phép nhân ta thực hiện tính chia. (Lấy số lớn chia số bé)
- Nêu quy tắc muốn tìm thừa số chưa biết ta lấy tích chia cho thừa số đã biết.
Ví dụ1: X x 5 = 10
 X = 10 : 5 (10 là số lớn, 5 là số bé).
 X = 2
Ví dụ 2:
3 x X = 15
 X = 15: 3 (15 là số lớn,3 là số bé).
 X = 5
* Dạng X : a = b
(tìm x với phép tính chia (:) x nằm phía trước dấu chia (:) ta thực hiện tính nhân (x).
Ví dụ:
Nêu quy tắc muốn tìm số bị chia chưa biết ta lấy thương nhân với số chia.
 X : 3 = 4 (Lấy số đứng sau dấu bằng nhân số đứng trước dấu bằng)
 x = 4 x 3 
 x = 12
4. Giải toán:
- Toán có lời văn lớp 2 là loại toán đơn có một phép tính (+, -, x hoặc :)
Đối với loại toán này các em thường sai lời giải và đơn vị.
Về lời giải: Tôi hướng dẫn như sau.
Cách 1:
- Dựa vào câu hỏi để đặt lời giải.
- Bỏ chữ “hỏi” và chữ “bao nhiêu”.
- Thêm vào chữ “là” ta sẽ được lời giải.
Ví dụ: Bình có 10 cái kẹo, Quang có 5 cái kẹo. Hỏi cả hai bạn có bao nhiêu cái kẹo? (Cả hai bạn có cái kẹo là).
Cách 2:
- Dựa vào câu hỏi để đặt lời giải.
- Thay chữ “số” và “đơn vị” vào chỗ chữ hỏi.
- Thêm chữ “là” cuối câu ta được lời giải.
(Số cái kẹo cả hai bạn có là)
Trường hợp ngoại lệ rất ít. Khi gặp trường hợp đó tôi hướng dẫn thêm cho học sinh.
- Về đơn vị học sinh hay nhầm. Nên tôi chỉ cho học sinh nhận ra “đơn vị” thường là những chữ gần ở trước dấu (?). Ví dụ: (cái kẹo).
- Với các hình thức hỗ trợ cho các em trong việc học tốt môn toán nêu trên. Tôi nhận thấy các em đã từng bước tiến bộ làm tính chính xác, có tự tin. Không còn ỷ lại chờ bạn kế bên. Các em đã nhận thức được việc học tập do chính bản thân các em gặt hái được. Song trong quá trình học tập các em được làm các bài tập liên tục lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ giúp các em củng cố ghi nhớ trong tìm thức các em, giúp các em thuộc lòng bảng cộng, bảng trừ lúc nào mà chính bản thân các em cũng không hay. Thực hiện đúng các bài toán dạng tìm thành 

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_hoc_tot.docx