Sáng kiến kinh nghiệm Lôi cuốn học sinh vào tiết học qua những câu chuyện kể về các nhà bác học, về lịch sử tìm ra các nguyên tố hóa học

Sáng kiến kinh nghiệm Lôi cuốn học sinh vào tiết học qua những câu chuyện kể về các nhà bác học, về lịch sử tìm ra các nguyên tố hóa học

CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ:

Phân môn hóa học trong trường THPT giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí tuệ của học sinh. Mục đích của môn học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài học, giờ thực hành của hóa học. Hóa học để hiểu biết, giải thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, phân tử, sự chuyển hóa qua lại của các chất bằng các phương trình phản ứng hóa học Đồng thời khởi nguồn, là cơ sở phát huy tính sáng tạo đưa những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. Hóa học góp phần giải tỏa, xóa bỏ các hiểu biết sai lệch làm phương hại đến đời sống, tinh thần của con người Để đạt được mục đích của hóa học trong trường phổ thông thì giáo viên dạy hóa học là nhân tố tham gia quyết định chất lượng. Do vậy, ngoài những hiểu biết về hóa học, người giáo viên dạy hóa học còn phải có phương pháp truyền đạt, thu hút, gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức hóa học của học sinh. Đó là vấn đề cần quan tâm và nghiên cứu nghiêm túc. Trong sáng kiến kinh nghiệm này, tôi có đề cập đến một khía cạnh “Lôi quấn học sinh vào tiết học qua những câu truyện kể về các nhà bác học, về lịch sử tìm ra các nguyên tố hóa học ”. Với mục đích góp phần sao cho học sinh học hóa học dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi quấn học sinh khi học . Để hóa học không còn mang tính đặc thù khó hiểu như một “ Thuật ngữ khoa học”.

II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ

Trước tình hình học hóa học phải đổi mới phương pháp dạy đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phải phát huy tính thực tế, giáo dục về môi trường, về tư tưởng vừa mang bản sắc dân tộc mà không làm mất đi tính cộng đồng trên toàn thế giới, những vấn đề cũ nhưng không cũ mà vấn có tính cập nhật mới mẻ, đảm bảo: Tính khoa học – Hiện đại, cơ bản, tính thực tiễn và giáo dục kỹ thuật tổng hợp, tính hệ thống sư phạm. Tuy nhiên mỗi tiết học có thể không nhất thiết phải hội tụ tất cả các quan điểm nêu trên, cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng, đừng quá lạm dụng khi lượng kiến thức không đồng nhất.

 

doc 26 trang cuonglanz2a 9911
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Lôi cuốn học sinh vào tiết học qua những câu chuyện kể về các nhà bác học, về lịch sử tìm ra các nguyên tố hóa học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GD&ĐT LÀO CAI
TRƯỜNG THPT SỐ I BÁT XÁT
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
LÔI CUỐN HỌC SINH VÀO TIẾT HỌC
QUA NHỮNG CÂU CHUYỆN KỂ VỀ CÁC NHÀ BÁC HỌC,
VỀ LỊCH SỬ TÌM RA CÁC NGUYÊN TỐ HÓA HỌC.
Người thực hiện:
ĐOÀN THU HIỀN
Chuyên môn:
Hóa học
Chức vụ:
Tổ trưởng chuyên môn
Tổ chuyên môn
Hóa – Sinh – Thể Dục
Đơn vị công tác:
Trường THPT số I Bát Xát
Bát Xát, tháng 5 năm 2014
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
I.Đặt vấn đề
1. Lý do chọn đề tài
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3
3. Phương pháp nghiên cứu
4
4. phạm vi nghiên cứu
4
II. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
1. Cơ sở lí luận của vấn đề 
5
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
5
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
6
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
23
III. Phần kết luận
1. Ý nghĩa của sang kiến kinh nghiệm
24
2. Nhận định chung
25
3. Bài học kinh nghiệm 
25
IV- Tài liệu tham khảo
26
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Phân môn Hóa học trong trường THPT giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí dục của Học sinh. Mục đích của môn Hóa học giúp học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài học, giờ thực hành....của Hóa học nhưng qua thực tiễn giảng dạy tôi nhận thấy nhiều học sinh đều cảm thấy môn Hóa học là,.môn khoa học khô khan và khó tiếp thu nếu không đưa được các kiến thức thực tế vào bài học và đặc trưng môn Hóa học là các kiến thức đều liên quan đến nhau nên nếu chỉ ở một vài tiết học nào đó mà học sinh không chú ý sẽ tạo lỗ hổng cho các phần kiến thức liên quan và học sinh sẽ sợ học môn hóa. Do vậy, ngoài những hiểu biết về hóa học, người giáo viên dạy Hóa học còn có phương pháp truyền đạt thích hợp và những hiểu biết về những vấn đề liên quan đến bài học để gây hứng thú cho Học sinh khi lĩnh hội các kiến thức. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: "Lôi quấn học sinh vào tiết học qua những câu truyện kể về các nhà bác học, về lịch sử tìm ra các nguyên tố hóa học ".
II- MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
	1. Mục đích của SKKN 
Nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học hoá học 
Phát huy tính tích cực và tạo hứng thú cho học sinh trong học tập bộ môn và qua những câu truyên kể phần nào giúp các em yêu thích, say mê nghiên cứu khoa học hơn.
Đề tài này đặt ra nhằm phát huy tính tích cực trong giảng dạy và học môn Hóa học. Qua những câu truyện kể về các nhà bác học hoặc lịch sử về các nguyên tố có liên quan đến bài học để giúp Học sinh tìm hiểu, tư duy và phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo trong việc tiếp thu các kiến thức của bộ môn Hóa học.
2. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh khối 10 năm học 2013– 2014 
3. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm
Học sinh lớp 10A5 và 10A6 trường THPT số I huyện Bát Xát - Lào Cai
III – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Để hoàn thành tốt đề tài này tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như:
Phân tích lý thuyết, điều tra cơ bản, tổng kết kinh nghiệm sư phạm và sử dụng một số phương pháp thống kê toán học trong việc phân tích kết quả thực nghiệm sư phạm v.v.. .
Nghiên cứu kỹ sách giáo khoa lớp 10, 11, 12 và các sách tham khảo về các nhà bác học và lịch sử tìm ra các nguyên tố.
Đúc rút kinh nghiệm của bản thân trong quá trình dạy học.
Tham khảo, học hỏi kinh nghiệm của một số đồng nghiệp . 
Ứng dụng thực tiễn: Giảng dạy vào thực tiễn khi áp dụng các nội dung vào trong bài học và vận dụng làm bài học trên lớp, kiểm tra kết quả giữa 2 lớp trong đó có 1 lớp đối chứng
Đề tài này nghiên cứu áp dụng trong chương trình giảng dạy đối với học sinh lớp 10, 11, 12 
Giáo viên cũng có thể yêu cầu học sinh về nhà tìm tư liệu qua sách, mạng trước tiết học 1 vài hôm để khích thích các em tìm tòi và nghiên cứu bài học.
IV. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
Kế hoạch thực hiện đề tài: Đề tài bắt đầu nghiên cứu từ tháng 9 năm 2013, được thực nghiệm trong năm học 2013-2014 ở lớp 10 Đề tài được áp dụng tại trường THPT – số I huyện Bát Xát- Lào Cai 
PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ:
Phân môn hóa học trong trường THPT giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí tuệ của học sinh. Mục đích của môn học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài học, giờ thực hành  của hóa học. Hóa học để hiểu biết, giải thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, phân tử, sự chuyển hóa qua lại của các chất bằng các phương trình phản ứng hóa học  Đồng thời khởi nguồn, là cơ sở phát huy tính sáng tạo đưa những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. Hóa học góp phần giải tỏa, xóa bỏ các hiểu biết sai lệch làm phương hại đến đời sống, tinh thần của con người Để đạt được mục đích của hóa học trong trường phổ thông thì giáo viên dạy hóa học là nhân tố tham gia quyết định chất lượng. Do vậy, ngoài những hiểu biết về hóa học, người giáo viên dạy hóa học còn phải có phương pháp truyền đạt, thu hút, gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức hóa học của học sinh. Đó là vấn đề cần quan tâm và nghiên cứu nghiêm túc. Trong sáng kiến kinh nghiệm này, tôi có đề cập đến một khía cạnh “Lôi quấn học sinh vào tiết học qua những câu truyện kể về các nhà bác học, về lịch sử tìm ra các nguyên tố hóa học ”. Với mục đích góp phần sao cho học sinh học hóa học dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi quấn học sinh khi học. Để hóa học không còn mang tính đặc thù khó hiểu như một “ Thuật ngữ khoa học”.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ 
Trước tình hình học hóa học phải đổi mới phương pháp dạy đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phải phát huy tính thực tế, giáo dục về môi trường, về tư tưởng vừa mang bản sắc dân tộc mà không làm mất đi tính cộng đồng trên toàn thế giới, những vấn đề cũ nhưng không cũ mà vấn có tính cập nhật mới mẻ, đảm bảo: Tính khoa học – Hiện đại, cơ bản, tính thực tiễn và giáo dục kỹ thuật tổng hợp, tính hệ thống sư phạm. Tuy nhiên mỗi tiết học có thể không nhất thiết phải hội tụ tất cả các quan điểm nêu trên, cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng, đừng quá lạm dụng khi lượng kiến thức không đồng nhất.
Thực tế giảng dạy cho thấy: Môn hóa học trong trường phổ thông là một môn học khó, nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lý phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận, đã có hiện tượng một số bộ phận học sinh không muốn học hóa học, ngày càng lạnh nhạt với giá trị thực tiễn của hóa học.
Nhiều giáo viên chưa quan tâm đúng mức đối tượng giáo dục, chưa đặt ra cho mình nhiệm vụ và trách nhiệm nghiên cứu, hiện tượng dùng đồng loạt cùng một cách dạy, một bài giảng cho nhiều lớp, nhiều thế hệ học trò là không ít. Do phương pháp ít có tiến bộ mà người giáo viên đã trở thành người cảm nhận, truyền đạt tri thức một chiều.
Nhiều giáo viên coi nhẹ hoặc coi việc giáo dục tích hợp các nội dung liên quan đến bộ môn mà qua đó giáo dục cho các em kĩ năng sống, mục đích, lí tưởng sống cũng như động viên các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn là việc của môn khác, của giáo viên chủ nhiệm hay một đoàn thể nào đó cũng như gia đình các em là một suy nghĩ không đúng.Trong một tiết học nhiều giáo viên chỉ chú trong dạy làm sao đủ thời gian để hết lượng kiến thức mà chương trình yêu cầu mà không lồng ghép một cách phù hợp các nội dung liên quan để qua đó giáo dục được các em phát triển toàn diện và có những đam mê khoa học mà có thể trước đó các em chưa dám nghĩ tới.
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Để việc giảng dạy bộ môn hóa học đạt hiệu quả cao hơn tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung phương pháp trong các bài giảng hóa học trung học phổ thông. Một trong những điểm tôi đã làm là “Lôi quấn học sinh vào tiết học qua những câu truyện kể về các nhà bác học, về lịch sử tìm ra các nguyên tố hóa học”. Làm cho hóa học không khô khan, bớt đi tính đặc thù của khoa học.
Cơ sở lý luận và thực tiễn dạy học tôi đã thấy rằng “Lôi quấn học sinh vào tiết học qua những câu truyện kể về các nhà bác học, về lịch sử tìm ra các nguyên tố hóa học” sẽ tạo hứng thú, khơi dậy niềm đam mê. Học sinh hiểu được sự hi sinh, nỗi vất vả của việc nghiên cứu khoa học và những vinh quang, hạnh phúc khi là người có ích cho xã hội để từ đó phần nào làm cho các em biết trân trọng hơn những thành tựu khoa học và tạo động lực cho các em học tập tốt hơn. Để thực hiện được thì người giáo viên phải nghiên cứu kỹ bài giảng, xác định được kiến thức trọng tâm, tìm hiểu, tham khảo các vấn đề liên quan phù hợp với từng đối tượng học sinh ở thành thị và nông thôn, đôi lúc cần quan tâm đến tính cách, sở thích của đối tượng, tiếp thu, hình thành giáo án theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh phải mang tính hợp lý và hài hòa, nhẹ nhàng, đôi lúc khôi hài nhưng sâu sắc, vẫn đảm nhiệm được mục đích học môn hóa học. Tuy nhiên thời gian giành cho vấn đề này là không nhiều “Nó như thứ gia vị trong cuộc sống không thể thay cho thức ăn nhưng thiếu nó thì kém đi hiệu quả ăn uống”.
1. Các giải pháp thực hiện: 
1.1 “Lôi quấn học sinh vào tiết học qua những câu truyện kể về các nhà bác học, về lịch sử tìm ra các nguyên tố hóa học” bằng cách giáo viên tìm hiểu hoặc yêu cầu học sinh chuẩn bị trước các kiến thức liên quan đến bài học giúp cho học sinh có thể qua các tấm gương là các nhà bác học đó để tạo động lực cho các em học tập, rèn luyện và qua tìm hiểu về các nguyên tố cũng tạo hứng thú cho các em tiếp thu bài mới một cách vui vẻ, hiệu quả.
2. Các biện pháp về tổ chức thực hiện:
1. Để tổ chức thực hiện được giáo viên có thể dùng nhiều phương tiện, nhiều cách như: Bằng lời giải thích bằng hình ảnh, đoạn phim có thể tiến hành dạy trong hoàn cảnh dùng máy chiếu hay không dùng máy chiếu. .. Điều này cần phụ thuộc vào mỗi giáo viên ở mỗi trường THPT, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể và phong cách dạy khác nhau để huy động tối đa vì hiệu quả giáo dục với nội dung đề tài này, có những kinh nghiệm có thể áp dụng cho nhiều người, nhưng có những phong cách không thể áp dụng cho giáo viên khác. Vì phong cách dạy “ Nó như tính cách của mỗi con người không ai giống ai” Nhưng đảm bảo được nội dung dạy học theo yêu cầu của chương trình. Tôi nói như vậy không có nghĩa người giáo viên không đổi mới phương pháp giảng dạy mà mỗi giáo viên luôn phải tìm cách đổi mới trong phong cách dạy của mình theo yêu cầu của thực tiễn hiện hành. Có thể nói “ Người giáo viên như một đạo diễn cho tiết dạy của mình”.Sau đây là một số ví dụ mà tôi đã áp dụng thành công trong giảng dạy: 
* VÍ DỤ 1: Sự phát minh ra nguyên tố Flo.
Lịch sử coi năm 1771 là năm tìm ra flo, khi nhà hóa học Thụy Điển Sile, chưng hỗn hợp khoáng vật fluorit (CaF2) với axit sunfuric, ông thu được một chất mới.
Lavoadiê gọi chất mới này là axit noric, vì ông nghĩ rằng hợp chất này có chứa oxy và một nguyên tố mới chưa biết.
Tất nhiên Lavoidiê đã lầm. Sau khi làm thí nghiệm đốt cháy lưu huỳnh, photpho (1872) rồi hòa tan trong nước, ông đều thu được axit. Từ đó ông tổng quát hóa rằng hễ axit là có chứa oxy. Theo ông, oxy có nghĩa là sinh ra axit.
Đến năm 1810, nhà điện hóa Anh Đêvi (H.Davy) bằng cách điện phân axit clohyđric (HCl) đã tìm ra được clo và ông đã chứng minh rằng axit này là một hợp chất của clo với hyđro.
Tương tự như vậy, ông giả thiết rằng axit flohyđric sẽ là một hợp chất của một nguyên tố mới chưa biết với hyđro.
Tuy nhiên, lịch sử đi tìm ra flo tự do là lịch sử của nguy hiểm và hy sinh của nhiều nhà khoa học. Đêvi đã không thành công trong việc điện phân axit flohyđric và ông bị ngộ độc, tuy rằng ông đã xác định được khối lượng nguyên tử của flo là bằng 19,06.
Đến năm 1834, học trò của Đêvi là nhà vật lý Farađây (M.Faraday) cố gắng tìm cách giải quyết vấn đề flo tự do bằng cách điện phân một số florua ở trạng thái nóng chảy, nhưng cũng thất bại.
Sau đó hai anh em Knôcxơ (Knox) người Airơlan tiến hành thí nghiệm 5 năm liền, kết quả một người chết và người khác bị thương. Một số nhà bác học khác đã chia sẻ số phận thảm hại của anh em Knôcxơ.
Cuối cùng, trong những năm 1854 - 1856, giáo sư Pháp trường Đại học Bách khoa ở Pari Frêmi (E.Premy) đã điện phân canxi florua (CaF2) nóng chảy. Canxi kim loại xuất hiện ở cực âm, trong khi đó một chất khí thoát ra ở cực dương.
Như vậy, Frêmi xứng đáng được coi như đồng tác giả với Sile, mặc dù ông chưa thu được khí flo để nghiên cứu tính chất. Cần nói ngay ở đây rằng không dễ dàng thu được khí flo. Nó có hoạt tính cao và rất độc, độc hơn cả axit HF.
Năm 1869, nhà hóa học Anh Gorơ (G. Gore) đã thu được một lượng rất ít flo, nhưng nó đã nổ mạnh khi tác dụng với hyđro.
Người cuối cùng thành công trong việc điều chế ra flo ở trạng thái tự do là nhà hóa học Pháp Moaxăng (A. Moissan). Trước một ủy ban đặc biệt của Viện Hàn lâm Khoa học Pari gồm những nhà hóa học nổi tiếng, Moaxăng đã trình bày thí nghiệm. Ngày đầu ông thất bại, nhưng ngày thứ hai mới thành công. Đó là năm 1886 - nửa sau của thế kỷ 19.
Năm sau, ông thu được flo lỏng.
Hợp chất có chứa flo được dùng làm thuốc chữa bệnh. Trong nước uống nếu thiếu muối flo người ta dễ bị sâu răng. Trong nhiều loại thuốc đánh răng trên nhãn hiệu có ghi thêm chữ fluoride, tức là đã có thêm hợp chất của flo.
Cái gì ít là thuốc chữa bệnh, nhưng qúa liều lượng sẽ trở thành chất độc. Ở miền Nam châu Phi và ở Ôxtrâylia có một vài loài cây có chứa flo (kali floaxetat) rất độc. Một ít lá tươi của loại cây này (khoảng 1g) đã có thể giết chết một con cừu.
+ Lĩnh vực áp dụng: Đây là vấn đề có liên quan đến tích hợp môi trường và qua bài học học sinh hiểu được tầm quan trọng của Flo, vừa có ý thức bảo vệ môi trường và kích thích sự tìm hiểu vấn đề này. Qua đó cũng giúp các em học sinh hiểu rằng để tìm ra một nguyên tố đã phải có sự hi sinh rất nhiều từ các nhà bác học, thậm chí cả sự hi sinh về tính mạnh nên qua đó các em phải biết trân trọng những thành tựu khoa học và tích cực học tập hơn Giáo viên có thể đưa vào bài giảng về bài Flo- Brom- Iot (lớp 10).
* VÍ DỤ 2: Giấc mơ và 2 phát minh Hóa học nổi tiếng.
1. Giấc mơ về vòng benzen của nhà hoá học Kekules:
Benzen dùng làm dung môi và là nguyên liệu để tổng hợp chất nổ được nhà khoa học người Anh Micheal Faraday (1791-1867) phát hiện từ năm 1825, nhưng sau đó vài chục năm người ta vẫn chưa tìm ra công thức phân tử phù hợp cho chất này.
 Người ta hiểu phân tử benzen rất đối xứng nhưng không tưởng tượng ra được là 6 nguyên tử C hoá trị IV và 6 nguyên tử H hoá trị I được tổ hợp như thế nào để hình thành một phân tử benzen ổn định. Một ngày mùa đông năm 1865, Friedrich August Kekules (1829-1896), nhà hóa học người Đức ngồi ngủ gật cạnh bếp lò trong sự mệt mỏi của công việc nghiên cứu.
 Trong giấc mơ, cùng với ảo giác về những nguyên tử cacbon và hydro nối nhau nhảy múa thành một dây xích, ông đã nhìn thấy một con rắn đang quay đầu, miệng ngoặm cái đuôi mình và xoay tròn. Kekules bừng tỉnh giấc và hiểu ra rằng benzen là vật chất kết cấu dạng vòng, đó là một vòng benzen 6 cạnh, 6 nguyên tử cacbon là 6 đỉnh của một lục giác đều.
2. Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học của Mendeleev:
 Có một giấc mơ quan trọng đã xảy ra vào một đêm tháng 02/1869, liên quan đến “hiến pháp của vương quốc hóa học” – luật tuần hoàn của các nguyên tố. Lúc bấy giờ người ta chỉ mới tìm ra 63 nguyên tố hóa học, nhưng còn chưa rõ chúng được sắp xếp như thế nào. Các nhà khoa học luôn trăn trở, cho rằng nhất định các nguyên tố hóa học phải được sắp xếp thứ tự theo một quy luật nào đó. Giáo sư hóa học người Nga Dimitri Ivanivich Mendeleev (1834-1907) lúc bấy giờ mới 35 tuổi, đã tìm tòi rất nhiều về vấn đề này. Một hôm, sự mệt mỏi khiến ông mất ngủ thiếp đi và ông đã mơ. 
 Trong giấc mơ, ông thấy một bảng gồm nhiều ô, đồng thời lại thấy các nguyên tố hóa học lũ lượt rơi vào các ô một cách trật tự. Khi bừng tỉnh, ông vội ghi lại ý tưởng và sau đó kiểm chứng lại các tính chất của từng nguyên tố. Bất ngờ là khi kiểm tra lại thì ông thấy rất phù hợp, tính chất các nguyên tố thay đổi theo chiều tăng diện tích hạt nhân và các tính chất được lặp lại một cách tuần hoàn theo từng hàng. Đáng ngạc nhiên hơn, những nguyên tố còn trống được ông dự đoán tính chất gần sát với thực tế. Và thế là bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học của Mendeleev ra đời và được sử dụng trên toàn thế giới.
Lĩnh vực áp dụng: Trong khi dẫn dắt vào bài ‘BenZen’ và bài ‘Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học ‘ giáo viên có thể thông qua cầu chuyên này để thu hút các em chú ý ngay từ đầu và cũng giúp các em phần nào hiều được nỗi vất vả và sự vinh quang của việc nghiên cứu khoa học.
* VÍ DỤ 3: 9 nguyên tố hóa học được biết tới từ thời cổ đại
 Trong số hơn 110 nguyên tố hóa học thì chỉ có 89 nguyên tố hóa học là tồn tại trong thiên nhiên. Khi tìm hiểu các nguyên tố hóa học này, đa phần chúng ta đều thấy có tên tuổi người tìm ra, xuất xứ tên gọi, năm tìm ra  Tuy nhiên, có một vài nguyên tố là không có những điều trên bởi chúng đã được tìm ra từ rất lâu rồi. Đặc biệt, với từng quốc gia khác nhau thì tên gọi dân gian của các nguyên tố này cũng khác nhau. Có 7 nguyên tố đã được lịch sử ghi nhận là có từ thời xa xưa là 7 kim loại – vàng, bạc, đồng, sắt, thiếc, chì, thủy ngân cùng 2 phi kim – cacbon và lưu huỳnh.
 Điểm qua các nguyên tố này, trước hết đối với phi kim chúng ta thấy cacbon tồn tại rất nhiều trong tự nhiên, ở thể rắn là than và kim cương. Lưu huỳnh tự nhiên cũng có rất nhiều ở gần các núi lửa hoạt động. Vào thời Hy Lạp cổ đại, người dân đã biết đốt lưu huỳnh để tẩy uế nhà cửa và sau đó là xuất hiện trong công thức thuốc súng của người Hy Lạp và Trung Quốc.
Vàng (Au) được lấy từ chữ Aurora (rạng đông) trong tiếng La tinh. Người ta đã tìm thấy dấu hiệu của các đồ vật bằng vàng đi cùng với vũ khí bằng đá ở thời đại đồ đá mới. Vàng cũng là một trong những nguyên nhân chính gây ra rất nhiều các cuộc chiến tranh trên thế giới. Vàng quý bởi các tính chất vật lý và hóa học của chúng (không bị oxy hóa, hầu như không tan trong acid, 1 gam vàng có thể kéo thàng 1 sợi dài 2km)
Bạc (Ag) được coi là song sinh với vàng. Người xưa thể hiện vòng tròn có chấm ở giữa (cho Mặt trời) để chỉ vàng, hình lưỡi liềm (cho Mặt Trăng) để chỉ bạc. Cũng giống như vàng, bạc đã biết tới từ thời cổ đại. Vàng và bạc có tính chất chữa và phòng bệnh rất tốt nên thường được dùng làm chén bát thời xưa.
Đồng (Cu) có lẽ là kim loại đầu tiên thay đá làm công cụ lao động vào khoảng 4000 năm trước Công Nguyên. Sau đó, vào thời kỳ đồng thanh thì con người đã biết nấu chảy đồng từ quặng (đồng lẫn thiếc gọi là đồng thanh). Với khả năng dễ làm nóng chảy, đồng cũng đã được sử dụng để đúc vũ khí vào thời xưa.
Sắt (Fe) là một trong những nguyên tố Trời cho. Nói là Trời cho bởi vì có rất nhiều sắt rơi từ trên trời xuống cùng các thiên thạch. Sau thời kỳ đồ đồng, sắt đã được sử dụng để thay thế. Cứng hơn, bền hơn nhưng khó nung chảy hơn, việc hoàn thiện quá trình luyện sắt thực sự là một trở ngại đối với con người vào thời xưa.
Chì (Pb) cũng được loài người biết tới từ khoảng thời gian 3000-4000 năm trước Công Nguyên thông qua những đồng tiền và những bức tượng bằng chì. Hệ thống dẫn nước La Mã cũng được làm bằng Chì. Người ta thường hay nhầm Chì với Thiếc và thường sử dụng lẫn lộn hai kim loại này vào thời xưa. Chì có nhiệt độ nóng chảy thấp và khá mềm trong điều kiện tự nhiên.
Trong thiên nhiên, thiếc (Sn) không tồn tại ở dạng tự do, nhưng việc luyện thiếc từ SnO2 lại khá đơn giản bởi nhiệt độ nóng chảy thấp (231.9oC). Thiếc có một đặc tính thú vị là sẽ chuyển từ dạng thiếc trắng (thanh kim loại) sang dạng thiếc xám (bột kim loại) ở nhiệt độ 13.2oC. Do vậy, năm 1812 khi quân đội Napoleon phải rút ra khỏi nước Nga, rất nhiều cúc áo làm bằng thiếc trên áo của quân Pháp đã biến thành bột xám.
Thủy ngân (Hg) đã được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ Ai Cập 3000 năm trước Công Nguyên. Người Ấn độ và Trung quốc cổ đại cũng đã biết dùng thủy ngân để hòa tan vàng và bạc. Thủy ngân là kim loại duy nhất tồn tại trong tự nhiên dưới dạng lỏng. Tại Tây Ban Nha người ta có thể tìm thấy thủy ngân tự nhiên ở trong đáy của các hố trên núi cao. Thời Hy Lạp cổ đại, thủy ngân đã từng được gọi là “bạc nước”.

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_loi_cuon_hoc_sinh_vao_tiet_hoc_qua_nhu.doc