Sáng kiến kinh nghiệm Công tác chủ nhiệm lớp

Sáng kiến kinh nghiệm Công tác chủ nhiệm lớp

a. Thuận lợi:

- Trong quá trình giáo dục luôn được các cấp, các ngành, chi bộ và các lực lượng xã hội quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ.

- Được sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời của lãnh đạo cấp trên, của ban giám hiệu nhà trường.

- Được sự hỗ trợ của hội cha mẹ học sinh, của các đoàn thể trong và ngoài nhà trường.

 - Nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện cho các lớp có đầy đủ phòng học, bàn ghế khang trang, phòng học thoáng mát, nhà vệ sinh sạch sẽ .

b. Khó khăn:

*Những khó khăn do khách quan:

Trường thuộc địa bàn vùng ven, kinh tế hộ gia đình đa số là thuần nông. Với khoảng 15% tổng số dân là hộ nghèo, cận nghèo. Vì vậy về thu nhập của người dân chưa cao dẫn đến đời sống kinh tế còn thấp. Việc mua sắm đồ dùng cho con em còn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu học tập của học sinh và nhu cầu giảng dạy của giáo viên. Cụ thể là khi đi học các em còn thiếu sách vở, đồ dùng học tập. Từ đó cho thấy công tác chủ nhiệm cũng rất vất vả, mặc dù đã cố gắng động viên rất nhiều nhưng vẫn có những em không mua được sách giáo khoa để học và phải mượn của nhà trường.

 Mặt bằng dân trí có phần thấp, kém hơn so với một số xã trong địa bàn huyện. Nhận thức của phụ huynh còn hạn chế. Sự quan tâm giáo dục của gia đình đối với các em chưa đúng mức, nhiều phụ huynh còn quan niệm việc giảng dạy và giáo dục học sinh là do nhà trường đảm nhiệm.

 Việc này đồng nghĩa với việc khoán trắng trọng trách cho người giáo viên. Mặt khác cũng có gia đình quan tâm tới việc học của con em mình nhưng lại không nắm được nội dung giảng dạy cũng như phương pháp dạy dẫn tới hiệu quả không cao. Thậm chí có trường hợp dạy sai dẫn tới các em nhận thức lệch hướng của vấn đề. Chính những khó khăn này ảnh hưởng trực tiếp đến việc học của các em.

 Bên cạnh đó ngoài giờ học các em còn phải tiếp giúp gia đình như: cắt lúa, phơi lúa chăn trâu cùng cha mẹ để tăng thêm thu nhập cho gia đình. Vì thế khi tới mùa vụ tỉ lệ nghỉ học của các em tương đối cao. Điều này làm cho việc học của các em bị hụt kiến thức dẫn đến mất căn bản.

 

doc 21 trang hoathepmc36 28/02/2022 7394
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Công tác chủ nhiệm lớp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: “Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp”.
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản để tiếp tục học trung học cơ sở. 
Nền tảng nhân cách, kỹ năng sống, kỹ năng học tập cơ bản ( nghe, nói, đọc, viết và tính toán) của học sinh được hình thành ở Tiểu học và được sử dụng trong suốt cuộc đời của mỗi con người. Học sinh tiểu học được dạy từ những thói quen nhỏ nhất như cách cầm bút, tư thế ngồi viết, cách thưa gửi, đi đứng, ăn mặc cho đến các kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng giao tiếp, các kỹ năng học tập và khả năng tự học, sáng tạo. Vì thế, bên cạnh việc trang bị cho học sinh những vốn kiến thức kỹ năng cơ bản trong học tập, còn cần phải chú ý đến việc rèn năng lực, phẩm chất cho học sinh, dạy học sinh cách “làm người”, để học sinh có thêm vốn kinh nghiệm thích ứng với môi trường mới, yêu cầu mới. Như vậy, giáo dục tiểu học là nền tảng của giáo dục phổ thông; đặt cơ sở vững chắc cho sự hình thành nhân cách và sự phát triển toàn diện của con người. thành quả của giáo dục tiểu học có giá trị lâu dài, có tính quyết định, vì thế, làm tốt giáo dục tiểu học là đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước. 
 Là người giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học có một vị trí đặc biệt quan trọng. Lao động của một giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là lao động sáng tạo không ngừng, sự sáng tạo đó đòi hỏi phải toàn diện: sáng tạo trong soạn giảng, trong tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi, trong sinh hoạt tập thể và đặc biệt là trong các biện pháp hoạt động giáo dục, rèn luyện năng lực, phẩm chất cho học sinh. 
 Ngoài việc tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập của học sinh , giáo viên chủ nhiệm lớp còn phải thường xuyên theo dõi các hoạt động trong giờ chơi, trong các buổi sinh hoạt, giao lưu tập thể,và cả hoạt động ở nhà của học sinh. Vì vậy công việc của một giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là rất nặng nề, rất vất vả và vô cùng phức tạp.
 Ở đầu mỗi năm học, ở cùng một trường học, cùng một khối lớp, chất lượng học tập của học sinh cũng tương đương nhau. Nhưng tại sao đến cuối năm, chất lượng học tập và hạnh kiểm của học sinh lớp này lại vượt trội hẳn so với các lớp khác; sĩ số của lớp này duy trì 100% nhưng ở những lớp khác lại có tới 1đến 2 học sinh bỏ học, thậm chí có em đang ở nhà nhưng vẫn không thể vận động đi học trở lại được. Tất cả những điểm khác biệt đó đều do giáo viên chủ nhiệm lớp tạo ra. Giáo viên chủ nhiệm nào có tinh thần trách nhiệm cao, tận tâm với học sinh của mình thì chắc chắn sẽ tìm ra được các biện pháp để thu hút học sinh đến lớp, làm cho học sinh trở nên chăm ngoan, thích đi học và luôn cảm thấy thích đến trường mỗi ngày.
 Mặt khác, tuy giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học dạy được tất cả các lớp (từ lớp 1 đến lớp 5) nhưng trong thực tế, không phải giáo viên nào cũng theo học sinh của mình từ lớp này lên lớp khác. Vì vậy, mỗi năm lên lớp, các em lại được học với một thầy (cô) khác nhau. Nếu giáo viên lớp dưới làm tốt công tác chủ nhiệm, xây dựng tốt nề nếp lớp học, rèn luyện cho học sinh phương pháp tự học và nhiều kĩ năng sống cơ bản khác; nhưng lên lớp trên, giáo viên chủ nhiệm lớp không duy trì, không phát huy thì rồi nề nếp lớp học và chất lượng học tập của học sinh sẽ ra sao? Do vậy, công tác chủ nhiệm lớp phải được thực hiện đồng bộ từ lớp Một đến lớp Năm. Nề nếp lớp học, phương pháp học tập, đạo đức, nhân cách và các kĩ năng sống của học sinh phải được giáo viên chủ nhiệm chú ý xây dựng, rèn dủa ngay từ lớp 1 và phải được duy trì, phát huy xuyên suốt ở các lớp trên.
 Bản thân tôi đã liên tục nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp 5. Có năm công tác chủ nhiệm của tôi rất nhẹ nhàng vì giáo viên lớp 4 đã làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Tôi chỉ việc phát huy và sáng tạo thêm theo mục tiêu phấn đấu của mình. Nhưng cũng có năm, tôi rất vất vả với công tác chủ nhiệm đầu năm. Với mong muốn đạt kết quả cao trong công tác giáo dục học sinh hoàn thành tốt kiến thức kĩ năng từ đó các em dần tự hoàn thiện năng lực, phẩm chất để trở thành con người có ích cho xã hội. Nên tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp”. 
Nhưng làm thế nào để công tác chủ nhiệm lớp đạt hiệu quả tại cơ sở giáo dục quả là một điều cần trăn trở. Với phạm vi đề tài này, tôi sẽ đưa ra một số ý kiến, kinh nghiệm của cá nhân mình, cũng như những việc làm cụ thể trong công tác giáo dục học sinh qua các năm học để cùng các bạn đồng nghiệp thảo luận tìm ra những giải pháp tốt hơn nữa nhằm đưa chất lượng giáo dục toàn diện đảm bảo tính bền vững.
*Điểm mới của đề tài: 
Đề tài này tôi muốn nghiên cứu sâu hơn việc xã hội hóa giáo dục: Đưa ra các giải pháp nhằm thống nhất giữa bồi dưỡng về nhận thức với thực tế công tác tổ chức thực hiện và các nhiệm vụ đặt ra từ thực tiễn. Thu hút, huy động nhiều lực lượng trong và ngoài nhà trường cùng tham gia. Các hoạt động giáo dục học sinh được nâng lên chiếm một vị trí quan trọng trong công tác giáo dục. Vai trò của cha mẹ học sinh, các tổ chức xã hội, chính quyền đoàn thể, được thể hiện đậm nét, có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả của các hoạt động rèn luyện năng lực, phẩm chất cho học sinh. 
Trong đề tài này tôi đặc biệt quan tâm đến quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.Từng bước làm thay đổi quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục rèn luyện của học sinh, học sinh dần tự trang bị cho mình các năng lực Tự phục vụ, tự quản; Giao tiếp hợp tác; Tự học và giải quyết vấn đề; hình thành phát triển phẩm chất: Chăm học chăm làm, tích cực tham gia hoạt động giáo dục; Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm; Trung thực kỉ luật, đoàn kết; Yêu gia đình, bạn và những người khác. Tận dụng các thành tựu mới nhất của khoa học giáo dục và kinh nghiệm tiên tiến trong hoạt động này. Hình thành lực lượng nồng cốt có năng lực trong học sinh và làm nhiệm vụ tư vấn rèn luyện phẩm chất cho các học sinh khác.
1. 2. Phạm vi áp dụng của đề tài:
 Đề tài mà tôi nghiên cứu này áp dụng cho giáo viên chủ nhiệm lớp bậc Tiểu học 
II.PHẦN NỘI DUNG
 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu.
a. Thuận lợi: 
- Trong quá trình giáo dục luôn được các cấp, các ngành, chi bộ và các lực lượng xã hội quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ.
- Được sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời của lãnh đạo cấp trên, của ban giám hiệu nhà trường.
- Được sự hỗ trợ của hội cha mẹ học sinh, của các đoàn thể trong và ngoài nhà trường.
 - Nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện cho các lớp có đầy đủ phòng học, bàn ghế khang trang, phòng học thoáng mát, nhà vệ sinh sạch sẽ . 
b. Khó khăn:
*Những khó khăn do khách quan: 
Trường thuộc địa bàn vùng ven, kinh tế hộ gia đình đa số là thuần nông. Với khoảng 15% tổng số dân là hộ nghèo, cận nghèo. Vì vậy về thu nhập của người dân chưa cao dẫn đến đời sống kinh tế còn thấp. Việc mua sắm đồ dùng cho con em còn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu học tập của học sinh và nhu cầu giảng dạy của giáo viên. Cụ thể là khi đi học các em còn thiếu sách vở, đồ dùng học tập. Từ đó cho thấy công tác chủ nhiệm cũng rất vất vả, mặc dù đã cố gắng động viên rất nhiều nhưng vẫn có những em không mua được sách giáo khoa để học và phải mượn của nhà trường. 
 Mặt bằng dân trí có phần thấp, kém hơn so với một số xã trong địa bàn huyện. Nhận thức của phụ huynh còn hạn chế. Sự quan tâm giáo dục của gia đình đối với các em chưa đúng mức, nhiều phụ huynh còn quan niệm việc giảng dạy và giáo dục học sinh là do nhà trường đảm nhiệm. 
 Việc này đồng nghĩa với việc khoán trắng trọng trách cho người giáo viên. Mặt khác cũng có gia đình quan tâm tới việc học của con em mình nhưng lại không nắm được nội dung giảng dạy cũng như phương pháp dạy dẫn tới hiệu quả không cao. Thậm chí có trường hợp dạy sai dẫn tới các em nhận thức lệch hướng của vấn đề. Chính những khó khăn này ảnh hưởng trực tiếp đến việc học của các em. 
 Bên cạnh đó ngoài giờ học các em còn phải tiếp giúp gia đình như: cắt lúa, phơi lúa chăn trâu cùng cha mẹ để tăng thêm thu nhập cho gia đình. Vì thế khi tới mùa vụ tỉ lệ nghỉ học của các em tương đối cao. Điều này làm cho việc học của các em bị hụt kiến thức dẫn đến mất căn bản. 
* Khó khăn từ phía giáo viên: 
- Công tác quan hệ với phụ huynh học sinh chưa được thường xuyên.
- Giáo viên chưa nắm vững tâm lý học sinh, thường có thiện cảm với học sinh khá, giỏi và nặng nề ngôn ngữ với những học sinh yếu kém .
- Giáo viên chưa tìm hiểu hết tâm tư nguyện vọng và hoàn cảnh của các em, làm cho học sinh yếu cảm thấy sợ sệt tự ti, mặc cảm và dẫn đến hỏng kiến thức và nghỉ học thường xuyên.
- Giáo viên chưa phát huy tốt tính tích cực tự học của học sinh .
- Giáo viên cơ bản mới chú ý đến việc giáo dục chất lượng học sinh, tuy nhiên có một số ít giáo viên thiếu sự răn đe học sinh hoang nghịch, cách ứng xử và giao tiếp trong cuộc sống.
- Một số giáo viên chưa tích cực tổ chức phương pháp dạy học tích cực, phương pháp mới VNEN, chưa tạo điều kiện để học sinh học nhóm, trao đổi kinh nghiệm học tập lẫn nhau.
* Khó khăn từ phía học sinh và phụ huynh: 
- Còn có nhiều học sinh gia đình có hoàn cảnh khó khăn thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo. Phụ huynh lo làm ăn nên ít quan tâm đến việc học của con em, giao phó giáo dục là trách nhiệm của thầy cô.
- Nhà ở xa trường học nên việc thực hiện nội quy trường, lớp của các em còn hạn chế.
- Một số học sinh thiếu thốn tình cảm (như chỉ ở với mẹ hoặc bố, ở với ông bà, cha mẹ làm ăn xa) nên các em không được quan tâm, giáo dục toàn diện như các bạn cùng trang lứa, có em còn có những biểu hiện mặc cảm tự ti, không dám hòa mình trong mọi hoạt động chung của lớp.
- Đa số các em còn hiếu động, suy nghĩ chưa sâu sắc nên đôi khi còn hay tranh cãi, đánh nhau gây ra những trường hợp không đáng có trong môi trường giáo dục.
- Học sinh chưa có động cơ tự học tập, thiếu hứng thú, chưa thấy lợi ích của việc học, chưa có thói quen và kỹ năng lao động trí óc.
 * Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là: 
Là một vùng khá xa trung tâm, trình độ dân trí thấp nên học sinh còn rụt rè, e ngại và các kĩ năng cơ bản của học sinh còn hạn chế, phụ huynh còn xem nhẹ việc học của con em mình.
Một số giáo viên lớn tuổi làm công tác chủ nhiệm lớp khá khó khăn; còn đối với một số giáo viên trẻ thì chưa nhiệt tình học hỏi để nâng cao năng lực giáo dục, đặc biệt là chủ nhiệm lớp ,vì đây là một công việc có đặc thù riêng, đòi hỏi phải có kinh nghiệm, tâm huyết với học sinh, yêu nghề mến trẻ nên nhiều giáo viên còn ngại khó.
Xuất phát từ thực trạng nêu trên, là người giáo viên trực tiếp chủ nhiệm lớp tôi mạnh dạn đề xuất "một số giải pháp nâng cao tác chủ nhiệm lớp" thể hiện qua các biện pháp cụ thể sau:
 2.2. Các giải pháp
Công việc của giáo viên chủ nhiệm lớp là vô vàn, không thể thống kê hết được. Trong sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ đi sâu vào 9 biện pháp chính sau đây:
Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp. 
 Trong những ngày đầu năm học, nề nếp lớp chưa được ổn định. Hơn nữa các em chưa tự ý thức được các việc trong lớp cũng như nội quy ra vào lớp, nội quy của nhà trường đề ra. Nên để ổn định và đi vào nề nếp phải mất một thời gian dài mới ổn định được. Trách nhiệm một giáo viên chủ nhiệm lớp đứng trước thực trạng như vậy tôi đã vận dụng ngay kinh nghiệm chủ nhiêm lớp mà tôi đã đúc kết qua nhiều năm giảng dạy nhằm làm tốt công tác chủ nhiệm lớp và nâng cao giáo dục toàn diện cho học sinh như sau:
1.1. Tìm hiểu đối tượng: 
 Là một giáo viên được nhà trường phân công làm công tác chủ nhiệm lớp thì trước hết phải tìm hiểu tỉ mĩ từng đối tượng học sinh, biết được hoàn cảnh, năng lực của từng học sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp đối với từng đối tượng. Ngay đầu năm học tôi đã bắt tay vào tìm hiểu thông tin về tình hình của lớp 5B do tôi chủ nhiệm như sau:
 - Tổng số học sinh trong lớp: 28 em / 14 nữ
 - Số học sinh có hoàn cảnh khó khăn (thuộc hộ nghèo): 8/28 em - Tỉ lệ : 28,6 %
 - Số học sinh có hoàn cảnh gần khó khăn (thuộc hộ cận nghèo ):4/28 em - Tỉ lệ : 14,3 %
 - Số học sinh mồ côi cha hoặc mẹ: 5/28 em – Tỉ lệ: 17,9%
 - Số học sinh nhà ở xa trường: 9/28 em – Tỉ lệ : 31,9%
 Đây là cơ sở để giáo viên phân loại học sinh theo từng nhóm và có hướng giáo dục phù hợp. Những học sinh nào có hoàn cảnh khó khăn thì quan tâm nhiều hơn bằng cách: Tôi dành thời gian ngoài giờ gặp trực tiếp cha mẹ (anh, chị) của học sinh để động viên, tạo điều kiện cho con em đi học đều. Việc này giáo viên phải tiến hành thường xuyên, liên tục hàng tuần. Sự chân thành và gắn bó giữa giáo viên và học sinh như vậy phụ huynh sẽ có trách nhiệm động viên, nhắc nhở con em đến lớp đầy đủ, thường xuyên và đúng giờ.
 Ngoài ra, tôi còn quan tâm tới những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh mồ côi bằng cách: có thể là cho các em dụng cụ học tập nếu các em thiếu, có thể là quần áo, dép, mủ,những đồ dùng này không giá là bao nhưng vẫn là nguồn động viên, an ủi cho các em đến trường. Cũng có thể là những hành động rất nhỏ như khâu lại nút áo, chải lại mái tóc khi các em chưa kịp thực hiện lúc đến lớp. Như ở lớp tôi có em Huyền mồ côi mẹ, sự chăm sóc về bản thân của em có phần hạn chế, đôi lúc em mặc áo quần bẩn do nhiều ngày không thay. Tôi gần gũi động viên và hướng dẫn em cách giữ gìn vệ sinh thân thể, có những lúc tôi đưa áo quần về giặt cho em. Những việc tuy nhỏ nhưng đối với các em thì đó là một sự khích lệ vô cùng lớn để các em vững bước trên con đường học tập. 
1.2. Bầu Hội đồng tự quản lớp: 
 - Ngay vào đầu năm học giáo viên chủ nhiệm cho học sinh lớp bầu ra hội đồng tự quản lớp gồm: 1 chủ tịch, 2 phó chủ tịch và 6 ban, 6 nhóm trưởng cùng nhau thành lập các ban: Ban học tập, ban văn nghệ thể dục thể thao, ban lao động, ban đối ngoại, ban nề nếp, ban quyền lợi học sinh. Từ việc học sinh bầu ra hội đồng tự quản và các ban, giáo viên phân công cụ thể công việc cho các ban của hội đồng tự quản trực tiếp theo dõi, quản lí, sử dụng các công cụ hỗ trợ đã được xây dựng và đang tồn tại trong lớp. Hướng dẫn học sinh thảo luận nội dung hoạt động. Các ban trong hội đồng tự quản hoạt động theo chức năng và nhiệm vụ của mình.
 + Chủ tịch theo dõi bao quát và tổ chức hướng dẫn các hoạt động chung của lớp.
 + Hai phó chủ tịch: Một phó chủ tịch phụ trách, chỉ đạo về các ban học tập, ban văn nghệ thể dục thể thao, ban đối ngoại. Một phó chủ tịch phụ trách, chỉ đạo các ban: ban lao động , ban nề nếp, ban quyền lợi học sinh, có nhiệm vụ kiểm tra, đôn đốc quá trình hoạt động của các ban. .
 + 6 ban trực tiếp chỉ đạo và hoàn thành kế hoạch của ban mình.
 + 6 nhóm trưởng trực tiếp quản lí, hướng dẫn các thành viên trong nhóm của mình về tất cả các hoạt động.
 Trong những ngày đầu năm học, nề nếp lớp chưa được ổn định. Hơn nữa các em chưa tự ý thức được các việc trong lớp cũng như nội quy ra vào lớp, nội quy của nhà trường đề ra. Nên để ổn định và đi vào nề nếp phải mất một thời gian dài mới ổn định được. Trách nhiệm một giáo viên chủ nhiệm lớp đứng trước thực trạng như vậy tôi đã vận dụng ngay kinh nghiệm chủ nhiệm lớp mà tôi đã đúc kết qua nhiều năm giảng dạy nhằm làm tốt công tác chủ nhiệm lớp và nâng cao giáo dục toàn diện cho học sinh.
1.3. Bồi dưỡng năng lực tự quản cho hội đồng tự quản lớp: 
 Để làm tốt công tác tự quản, trước hết giáo viên chủ nhiệm phải tập huấn cho hội đồng tự quản, các trưởng ban, nhóm trưởng và giao nhiệm vụ cho từng thành viên, sau khi các em đã nhận biết vai trò trách nhiệm của mình các em sẽ có ý thức tự quản tốt. Nhưng trong thời gian đầu năm học giáo viên chủ nhiệm phải theo dõi sát sao, ghi nhật kí cụ thể các hoạt động của hội đồng tự quản lớp để phát hiện mặt còn hạn chế và uốn nắn kịp thời. Bám sát kế hoạch của Nhà trường, của Đội để vạch ra kế hoạch từng tuần, từng tháng theo từng chủ điểm, từng đợt thi đua để hội đồng tự quản có kế hoạch theo dõi, hướng dẫn các bạn thực hiện.
1.4. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm ngay từ đầu năm học: 
 Việc lập kế hoạch xây dựng đội ngũ đi đôi với nhau, giúp giáo viên chủ nhiệm lớp có tầm nhìn xa, bao quát hơn trong công tác chủ nhiệm lớp vì thế dựa trên sự tìm hiểu và nắm bắt đội ngũ học sinh, dựa vào kế hoạch nhà trường tôi lập kế hoạch tỉ mỉ sát thực. Phần chung tình hình lớp, có kế hoạch và biện pháp thực hiện có cả năm rõ ràng cụ thể cho từng tháng, từng chủ điểm trong tháng. Có đánh giá, nhận xét từng tháng và sơ kết từng học kỳ. 
 Phần cuối theo dõi học sinh, phần này cần phải được theo dõi học sinh thường xuyên và chặt chẽ có ghi chép, đánh giá mọi sự tiến bộ cũng như những tồn tại chưa khắc phục được của từng em. Để có hướng giải quyết khắc phục kịp thời. việc theo dõi đánh giá này thể hiện qua từng ngày, từng tuần. 
Biện pháp 2: Xây dựng kỷ cương, kỉ luật trong lớp: 
 Dựa vào tình hình của lớp, kế hoạch và biện pháp thực hiện cho cả năm học đầu năm, tôi xây dựng kỷ cương nề nếp cho học sinh.
 Giao trách nhiệm cụ thể, rõ ràng tới từng học sinh, từng nhóm trưởng, chủ tịch, phó chủ tịch. Tăng cường công tác tự quản của học sinh, giúp các em có ý thức tự rèn luyện, tự học.
 Có quy định về lề lối học tập, rèn luyện quy định giờ giấc, có sự theo dõi chặt chẽ của từng nhóm, tránh sự buông lỏng về kỷ cương nề nếp. 
Biện pháp 3: Bồi dưỡng rèn luyện học sinh nâng cao chất lượng dạy và học: 
 Để nâng cao chất lượng học tâp cũng như giáo dục đạo đức cho các em, tôi đã kết hợp cùng với gia đình một cách chặt chẽ. Tôi thường xuyên liên lạc với phụ huynh để trao đổi tình hình học tập cũng như các sinh hoạt hằng ngày ở nhà khác của từng học sinh. Từ đó giúp tôi có một cách nhìn tổng quát hơn, thực chất hơn về mặt năng lực, phẩm chất của các em. 
 Bên cạnh đó, tôi luôn nhắc nhở phụ huynh tạo mọi điều kiện cho con em đến trường đều đặn, đúng giờ. Trên bục giảng là người giáo viên, tôi luôn phải mẫu mực, đối xử công bằng, không phân biệt, không thiên vị bất cứ học sinh nào, đồng thời không phê bình nặng, sỉ nhục học sinh làm tổn hại đến tâm lí của học sinh ở bất cứ hoàn cảnh nào.
 Trong giờ học, tôi luôn tạo không khí sinh động, sôi nổi, hài hòa, vui tươi không căng thẳng mà tạo niềm vui, sự phấn chấn để các em tự tin học tập, các em vừa học vừa chơi nhưng vẫn đảm bảo chương trình chung. Ví dụ trong giờ Tập đọc, Lịch sử, ngoài nội dung bài học, tôi còn kể nhiều câu chuyện lịch sử cho các em nghe, lồng ghép nội dung biển đảo của Tổ quốc để giáo dục các em lòng yêu Tổ quốc, ý thức bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của đất nước mình. Hay trong giờ học toán tôi vận dụng các câu chuyện cổ tích, câu chuyện vui để đưa ra các bài toán liên quan đến chương trình toán mà các em đang học. Khi đọc các bài toán có trong câu chuyện các em cảm thấy thú vị hơn với vấn đề yêu cầu các em giải quyết, nó còn giúp học sinh nâng cao kĩ năng đọc. Từ sự hưng phấn đó khoảng cách giữa các em với cô giáo chủ nhiệm được gần hơn, các em thực sự mạnh dạn, tự tin trong học tập. 
Biện pháp 4: Xây dựng nề nếp học tập: 
 - Chất lượng học tập được nâng cao hay không thì yêu cầu đầu tiên phải có nề nếp, có qui định. Ngay lần họp phụ huynh đầu năm học tôi đã yêu cầu phụ huynh phải chuẩn bị đầy đủ dụng cụ học tập cho con em. 
 - Tổ chức cho học sinh đọc bài đầu buổi học: Phó chủ tịch phụ trách học tập cùng với 5 nhóm trưởng cứ đầu buổi học các em truy bài, ôn bài cũ với các bạn trong lớp, trong nhóm. Hướng dẫn giải các bài tập khó và sẽ ghi tên các bạn không hoàn thành bài tập, không thuộc bài vào sổ theo dõi trình cho thầy cô giáo vào 15 phút đầu buổi. Giáo viên sẽ có hình thức giúp đỡ các học sinh đó kịp thời.
 - Phân chia đôi bạn “Cùng tiến”: Khi phân chỗ ngồi, tôi bố trí chia nhóm có đủ đối tượng học sinh , cho học sinh khá, giỏi ngồi cạnh học sinh trung bình, yếu. Em khá, giỏi sẽ theo dõi, hướng dẫn bạn, kèm cặp bạn trong học tập. Nếu học sinh trung bình, yếu có tiến bộ thì tôi lại biểu dương kịp thời cho đôi bạn đó để khích lệ tinh thần. Chính vì vậy đôi bạn nào cũng muốn được biểu dương khen ngợi nên bạn khá, giỏi rất nhiệt tình giúp bạn yếu học tập. Ngược lại, các bạn có sức học trung bình, yếu cũng cố gắng học tập để không làm ảnh hưởng đến bạn mình.
 - Xây dựng nề nếp học tập: Ngay từ đầu năm học, tôi c

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_cong_tac_chu_nhiem_lop.doc