Nâng cao hiểu biết và nhận thức cho học sinh THPT về Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979

Nâng cao hiểu biết và nhận thức cho học sinh THPT về Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979

Xuất phát từ thực tiễn của lịch sử dân tộc, yêu cầu thực tế của môn học, quyền được hiểu và biết của thế hệ trẻ liên quan đến tình hình đang có phần bất ổn về địa, chính trị đang và diễn biến phức tạp trên thế giới nói chung và trong khu vực cũng như các quốc gia với nhau nói riêng trong đó có Việt Nam chúng ta và nước láng giềng Trung Quốc qua các cuộc chiến tranh xâm lược mà chiều dài lịch sử đã ghi nhận về kết quả thành bại, trong đó có Chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc năm 1979 hay Cuộc chiến chống bè lũ bành trướng phương bắc. Phía Trung Quốc gọi là Chiến tranh đánh trả tự vệ trước Việt Nam (对越自卫还击战 Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến) Và đã là lịch sử thì phải nhìn nhận nó với sự thật đầy đủ. Sẽ không thể không nhắc đến ngày 17.2.1979, ngày mà cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc đã nổ ra; ngày mà hàng ngàn con em chúng ta đã hy sinh để bảo vệ biên cương của Tổ quốc. Nhắc để dân ta nhớ, biết ơn và tôn vinh những chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh xương máu để bảo vệ từng tấc đất biên cương tổ quốc, như chúng ta đã và sẽ vẫn tôn vinh bao nhiêu anh hùng liệt sĩ trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Không những dân ta cần hiểu, mà nhân dân Trung Quốc cũng như nhân dân các nước trên thế giới cũng phải hiểu đúng: đâu là sự thật, đâu là lẽ phải và coi đó là bài học. Không thể quên lãng nó.

- Đã có nhiều câu hỏi được nhắc đến về lịch sử “ Chiến tranh bảo vệ Biên giới phía Bắc năm 1979” của đông đảo nhân dân trong xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước, các em có quyền được hiểu, biết về giá trị lịch sử, nhân văn, tính nhân đạo, đâu là cốt lõi của sự thật nhưng chưa tài liệu, sách báo, mạng xã hội nào cập nhật một cách sòng phẳng, đầy đủ, ý nghĩa về cuộc chiến này.

- Đó là cơ sở, là lý do tôi lựa chọn đề tài “ Nâng cao hiểu biết và nhận thức cho học sinh THPT về “ Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 ” để giáo dục cho học sinh Trường THPT Ngọc Lặc năm học 2015 – 2016 và các năm học tiếp theo

 

doc 23 trang thuychi01 5390
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Nâng cao hiểu biết và nhận thức cho học sinh THPT về Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHỤ LỤC
TT
Đề mục
Nội dung tiêu đề
Trang
1
I.
- Mở đầu
1 - 2
2
I.1
- Lý do chọn đề tài
1
3
I. 2
- Mục đích nghiên cứu
1 - 2
4
I. 3
- Đối tượng nghiên cứu
2
5
I. 4
- Phương pháp nghiên cứu
2
6
II.
- Nội dung
2 - 18
7
II. 1
- Cơ sở lý luận của vấn đề
2
8
1. a
- Nguyên nhân và bối cảnh xảy ra chiến tranh giữa VN và TQ
2 - 6
9
2.
- Ý đồ thâm hiểm của Trung Quốc
6 - 8
2.a
 - Mục đích và mục tiêu của Trung Quốc 
7
2.b
- Tương quan lực lượng tham chiến
7 - 8
2.c
- Mặt trận ngoại giao của Trung Quốc
8
10
3
- Các giai đoạn của chiến tranh
8 - 14
3.a
- Giai đoạn 1: Mặt trận Lạng Sơn – Cao Bằng
8 - 10
3.b
- Mặt trận Lào Cai
10
3. c
- Trận Lạng Sơn
10 - 11
3.d
- Trung Quốc rút quân
11 - 12
3.e
- Việt Nam phản kích
12
3.g
- Phản ứng của Quốc tế
12 - 13
11
4
- Kết quả của cuộc chiến
13
12
5
- Thương vong và thiệt hại
13
13
6
- Đánh giá về cuộc chiến
14
14
II. 2
- Thực trạng của vấn đề
14 - 16
2.a
- Tính tích cực của vấn đề
14 - 15
2.b
- Tính tiêu cực
15
2.c
- Sự mâu thuẫn
16
2.d
- Khó khăn
16
2.e
- Thuận lợi
16
15
II. 3
- Giải pháp và tổ chức thực hiện
16 - 17
3.a
- Tổ chức hướng dẫn và giảng dạy
16
3. b
- Tổ chức hoạt động ngoại khóa
17
16
II. 4
- Hiệu quả và tác dụng của đề tài
17 - 18
4.a
- Với giáo viên
17
4.b
- Với bản thân
17
4.c
- Với học sinh
17 - 18
17
III.
- Kết luận và đề xuất
18
18
1
- Kết luận
18 - 19
19
2
- Kiến nghị
19
I. MỞ ĐẦU
I.1. Lí do chọn đề tài
Xuất phát từ thực tiễn của lịch sử dân tộc, yêu cầu thực tế của môn học, quyền được hiểu và biết của thế hệ trẻ liên quan đến tình hình đang có phần bất ổn về địa, chính trị đang và diễn biến phức tạp trên thế giới nói chung và trong khu vực cũng như các quốc gia với nhau nói riêng trong đó có Việt Nam chúng ta và nước láng giềng Trung Quốc qua các cuộc chiến tranh xâm lược mà chiều dài lịch sử đã ghi nhận về kết quả thành bại, trong đó có Chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc năm 1979 hay Cuộc chiến chống bè lũ bành trướng phương bắc. Phía Trung Quốc gọi là Chiến tranh đánh trả tự vệ trước Việt Nam (对越自卫还击战 Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến) Và đã là lịch sử thì phải nhìn nhận nó với sự thật đầy đủ. Sẽ không thể không nhắc đến ngày 17.2.1979, ngày mà cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc đã nổ ra; ngày mà hàng ngàn con em chúng ta đã hy sinh để bảo vệ biên cương của Tổ quốc.  Nhắc để dân ta nhớ, biết ơn và tôn vinh những chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh xương máu để bảo vệ từng tấc đất biên cương tổ quốc, như chúng ta đã và sẽ vẫn tôn vinh bao nhiêu anh hùng liệt sĩ trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Không những dân ta cần hiểu, mà nhân dân Trung Quốc cũng như nhân dân các nước trên thế giới cũng phải hiểu đúng: đâu là sự thật, đâu là lẽ phải và coi đó là bài học. Không thể quên lãng nó.
- Đã có nhiều câu hỏi được nhắc đến về lịch sử “ Chiến tranh bảo vệ Biên giới phía Bắc năm 1979” của đông đảo nhân dân trong xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước, các em có quyền được hiểu, biết về giá trị lịch sử, nhân văn, tính nhân đạo, đâu là cốt lõi của sự thậtnhưng chưa tài liệu, sách báo, mạng xã hội nào cập nhật một cách sòng phẳng, đầy đủ, ý nghĩa về cuộc chiến này.
- Đó là cơ sở, là lý do tôi lựa chọn đề tài “ Nâng cao hiểu biết và nhận thức cho học sinh THPT về “ Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 ” để giáo dục cho học sinh Trường THPT Ngọc Lặc năm học 2015 – 2016 và các năm học tiếp theo
I. 2. Mục đích nghiên cứu.
- Phổ biến những kiến thức về “ Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 ” mang tính lịch sử hào hùng mà ông cha ta đã đổ mồ hôi, sương máu tô điểm cho bức tranh hào khí, sự độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ngày nay, để thế hệ trẻ ( trong đó có cán bộ giáo viên và học sinh Trường THPT Ngọc Lặc) không quên và khắc cốt, ghi tâm truyền thống đấu tranh hào hùng của dân tộc , nâng cao niềm tin, niềm tự hào, xây dựng ý thức, trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước , sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ tổ quốc. 
- Không chỉ đưa vào sách giáo khoa những sự thật lịch sử về Hoàng Sa, Trường Sa mà ngay cả cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc cũng cần được nhắc đến đầy đủ. Con em chúng ta cần biết và có quyền biết lịch sử, biết những gì mà ông cha đã làm, để tự hào và tiếp nối truyền thống . Ta tôn trọng lịch sử, sòng phẳng với lịch sử không có nghĩa là chúng ta kích động hận thù. Chúng ta biết sự thật, để hiểu đâu là lẽ phải và để rút ra bài học cho các mối quan hệ quốc tế trong bối cảnh phức tạp ngày nay ( Tháng 6/ 2015 làm việc với đại diện Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đồng tình với đề xuất của GS Phan Huy Lê rằng phải đưa mạnh dạn, đầy đủ hơn nữa những tài liệu về Hoàng Sa, Trường Sa, cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc đã được kiểm chứng vào sách giáo khoa để giáo dục thế hệ trẻ )
 I. 3. Đối tượng nghiên cứu.
- Khách thể: Quá trình giảng dạy môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh bậc THPT
+ Thực trạng tiếp thu kiến thức, quyền được biết về một phần lịch sử dân tộc của học sinh Trường THPT Ngọc Lặc - Huyện Ngọc Lặc - Tỉnh Thanh Hóa trong năm học 2015 – 2016.
- Chủ thể: Giáo viên và học sinh Trường THPT Ngọc Lặc.
I. 4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
+ Điều tra, khảo sát thực tế, thu thập tài liệu
+ Tổng hợp và phân tích tài liệu
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn, 
+ Điều tra dư luận ( ý kiến tiếp thu, phản hồi của giáo viên và học sinh)
+ Kiểm chứng bằng thực nghiệm
- Phương pháp toán học xắc suất thống kê .
+ Đưa ra số liệu
+ Phân tích và tổng hợp số liệu.
II. NỘI DUNG
 	II. 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ 
1.a. Nguyên nhân và bối cảnh xảy ra chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc?
* Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc - Liên Xô
Tuy được sự giúp đỡ rất lớn của Trung Quốc trong chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam, các rạn nứt trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Trung Quốc đã bắt đầu thể hiện từ năm 1968. Hà Nội nhất định cùng lúc giữ mối quan hệ nồng ấm với cả Moskva lẫn Bắc Kinh trong khi mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc đã lên cao. Bất đồng quan điểm giữa Hà Nội và Bắc Kinh về cách tiến hành cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam trở nên rõ rệt. Bắc Kinh muốn Hà Nội chỉ tiếp tục chiến tranh du kích có giới hạn chống Hoa Kỳ, trong khi Hà Nội muốn tiến hành chiến tranh quy mô để thống nhất đất nước của họ. Và hơn thế nữa, họ muốn trực tiếp đàm phán với Hoa Kỳ, không cần thông qua một nước nào làm trung gian. Sau sự kiện Tết Mậu Thân, Hà Nội bắt đầu đàm phán với Hoa Kỳ, trong khi đó Bắc Kinh phản đối.
+ Năm 1972, chuyến thăm của tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh và thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc được Việt Nam Dân chủ Cộng hoà xem là một sự phản bội. Từ năm 1973, Ban lãnh đạo Trung Quốc đã có chỉ thị: "Bề ngoài ta đối xử tốt với họ (Việt Nam) như đối xử với đồng chí mình, nhưng trên tinh thần phải chuẩn bị họ sẽ trở thành kẻ thù của chúng ta". Năm 1975, trong chuyến thăm Bắc Kinh, Lê Duẩn thẳng thừng từ chối đưa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào liên minh chống Liên Xô của Trung Quốc, phủ nhận quan niệm của họ rằng chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô là mối đe dọa đối với các nước cộng sản châu Á. 
+ Khi Việt Nam ngày càng có quan hệ chặt chẽ hơn với Liên Xô, Trung Quốc thấy mình bị đe dọa từ hai phía. Đồng thời, Việt Nam cũng đang cố gắng xây dựng mối quan hệ đặc biệt chặt chẽ giữa 3 nước Đông Dương trong đó Việt Nam giữ vị thế đứng đầu. Cùng với thực tế rằng nước Việt Nam thống nhất đã trở thành một sức mạnh quan trọng trong vùng, làm giảm ảnh hưởng của Trung Quốc. Những điều này làm cho Trung Quốc lo ngại về một "tiểu bá quyền" Việt Nam và việc bị Liên Xô bao vây từ phía bắc. Một nước Campuchia chống Việt Nam đã trở thành một đồng minh quan trọng đối với Trung Quốc.
+ Ngày 29/ 6/1978 Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế. Tháng 7, Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước. Ngày 3/11/1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Ngày 22 tháng 12 năm 1978, Trung Quốc ngừng tuyến xe lửa liên vận tới Việt Nam. Đầu tháng 1 năm 1979, đường bay Bắc Kinh - Hà Nội cũng bị cắt.
+ Theo các nguồn tin chính thức của Mỹ vào tháng 8/1978, Việt Nam có 4.000 cố vấn và chuyên gia Liên Xô và đến giữa năm 1979 con số đã tăng lên đến 5.000-8.000. Tháng 9/1978, Liên Xô bắt đầu cung cấp vũ khí mới (máy bay, tên lửa phòng không, xe tăng và vũ khí, đạn dược, cơ sở vật chất phục vụ chiến tranh) cho Việt Nam bằng đường hàng không và đường biển.
+ Tháng 5/1979 trên biên giới Liên Xô - Trung Quốc xảy ra một xung đột quân sự nghiêm trọng có sự tham gia của cả máy bay trực thăng chiến đấu. Cũng trong tháng 5/1979, các tàu chiến Liên Xô bắt đầu đi vào hải phận Cam Ranh. Ít lâu sau, các máy bay của Hạm đội Thái Bình Dương bắt đầu hạ cánh xuống Cam Ranh.
* Quan hệ Việt Nam - Campuchia - Trung Quốc
+ Cùng lúc căng thẳng Việt Nam - Trung Quốc lên cao thì ở biên giới phía tây nam của Việt Nam, chính quyền Khmer Đỏ, với sự bảo trợ của Trung Quốc, cũng bắt đầu leo thang hoạt động quân sự xâm lấn miền Nam Việt Nam. Các xung đột lẻ tẻ ở khu vực này đã nhanh chóng bùng nổ thành Chiến tranh biên giới Việt Nam - Campuchia với hệ quả là Việt Nam đưa quân vào Campuchia lật đổ chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ. Đứng trước tình hình đó, Trung Quốc quyết định tấn công xâm lược Việt Nam với lý do "dạy cho Việt Nam một bài học" (lời Đặng Tiểu Bình) nhưng mục đích chính là phân chia lực lượng quân đội của Việt Nam để giúp chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ.
+ Quan hệ Việt Nam - Campuchia ngày càng đi xuống, thể hiện ngay từ tháng 5 năm 1975 khi Khmer Đỏ cho quân đánh chiếm các đảo Phú Quốc và Thổ Chu cũng như đánh sâu vào lãnh thổ Việt Nam và bắt đi và tàn sát hàng nghìn dân thường. Trong suốt thời gian đó và cả về sau, Trung Quốc luôn là nước viện trợ đắc lực cho Khmer Đỏ về vũ khí, khí tài cũng như cố vấn quân sự. Bên cạnh các nỗ lực ngoại giao dàn xếp không thành nhằm xoa dịu căng thẳng với Trung Quốc và Campuchia, Việt Nam tin rằng Trung Quốc đang sử dụng Campuchia để tấn công Việt Nam.
+ Sau khi cắt toàn bộ viện trợ cho Việt Nam thì năm 1975, Trung Quốc cho Campuchia vay không lấy lãi 1 tỷ USD và kí kết một hiệp ước quân sự bí mật với chính quyền Khmer Đỏ vào tháng 2 năm 1976. 
+ Từ tháng 9 đến tháng 10 năm 1977, Polpot có chuyến thăm tới Trung Quốc, nhằm thắt chặt quan hệ đồng minh giữa hai nước.
+ Ngày 20/11/1977, Tổng Bí thư Lê Duẩn thăm Trung Quốc đã bày tỏ quan điểm không tham gia vào cuộc tranh cãi Trung - Xô thông qua việc "chân thành cảm ơn Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác về sự nhiệt tình, giúp đỡ to lớn đối với Việt Nam". Tổng Bí thư cũng đề nghị những nhà lãnh đạo Trung Quốc yêu cầu Campuchia Dân chủ chấp nhận một giải pháp cho cuộc xung đột trên tuyến biên giới Tây Nam, nhưng Trung Quốc không quan tâm. 
+ Tháng 12 năm 1977, Phó Thủ tướng Trung Quốc Uông Đông Hưng tới thăm Campuchia và đi thị sát những vùng gần biên giới Việt Nam. Trong chuyến thăm này, Phó Thủ tướng Uông Đông Hưng tuyên bố: "Không một lực lượng nào có thể đứng cản trở quan hệ hữu nghị giữa Trung Quốc và Campuchia, hai nước sẽ là đồng chí với nhau mãi mãi".
+ Cuối năm 1977, các văn kiện của Quân khu Quảng Châu luôn nhấn mạnh tinh thần "phải chuẩn bị các mặt để đánh Việt Nam", tuyên truyền: "Việt Nam là tay sai của Liên Xô, có tham vọng xâm lược Campuchia, Lào, chiếm Đông Nam Á, thực hiện bá quyền khu vực, phải đánh cho bọn xét lại Việt Nam, không đánh là không thể được và phải đánh lớn. Việt Nam là tiểu bá ở châu Á, xâm lược Campuchia, xua đuổi người Hoa".
+ Tháng 1 năm 1978, Thủ tướng Phạm Văn Đồng yêu cầu các nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ giải quyết cuộc xung đột Việt Nam - Campuchia. Một lần nữa Trung Quốc không đáp ứng. Cũng trong tháng 1 năm 1978, Bà Đặng Dĩnh Siêu, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc sang thăm Phnompenh và ký một hiệp định xúc tiến viện trợ quân sự cho Campuchia Dân chủ, bắt đầu chuyển vũ khí đến Campuchia và tuyên bố: Trung Quốc sẽ không tha thứ cho một cuộc tấn công nào vào đồng minh của họ. Trung Quốc cũng hủy bỏ hiệp ước về lãnh sự với Việt Nam. Ngày 12/7/1978, lần đầu tiên, tờ Nhân dân Nhật báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, công khai buộc tội Việt Nam "tìm cách sáp nhập Campuchia vào một Liên bang Đông Dương dưới sự thống trị của Việt Nam". 
+ Theo tính toán của nhà nghiên cứu D.R.SarDesai, từ năm 1975-1978, Trung Quốc cung cấp cho Campuchia súng đại bác, súng cối, súng bazoca, súng đại liên, súng trung liên, vũ khí các loại, xe cộ và xăng đầu đầy đủ để trang bị cho đội quân 200.000 người, Trung Quốc cũng gửi khoảng 10.000 cố vấn và chuyên gia quân sự sang Campuchia để hỗ trợ và huấn luyện quân đội Polpot". Cuối năm 1978, căng thẳng giữa Việt Nam với cả Campuchia cũng như Trung Quốc đều lên một đỉnh mới.
+ Ngày 23 tháng 12 năm 1978, Quân đội Việt Nam tổng phản công trên biên giới Tây Nam, đánh sang Campuchia lật đổ chính quyền Khmer Đỏ. Trung Quốc có được lý do để tuyên bố về cuộc chiến chống Việt Nam sắp tiến hành. Sau khi Phnompenh thất thủ, ngày 27/1/1979 tờ Nhân dân Nhật báo có bài viết, trong đó có đoạn: "Sự thất thủ của Phnompenh không có nghĩa là chiến tranh chấm dứt mà chỉ là khởi đầu" và "vấn đề Campuchia đóng vai trò vật xúc tác để đẩy các quan hệ với Việt Nam vượt quá một điểm không thể nào quay trở lại được nữa".
* Vấn đề biên giới và hải đảo
 - Biên giới
+ Cuộc đàm phán đầu tiên về biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam - Trung Quốc được tiến hành từ ngày 15/8/1974 đến ngày 2/11/1974 ở cấp Thứ trưởng Ngoại giao. Từ giữa năm 1975, tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc trở nên căng thẳng do những hoạt động vũ trang từ phía Trung Quốc. Những xung đột ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc tại khu vực Cao Bằng - Lạng Sơn vào cuối năm 1976 làm quan hệ Việt Nam - Trung Quốc ngày càng xấu đi. Tháng 3 năm 1977, Việt Nam và Trung Quốc tiến hành đàm phán lần thứ hai về vấn đề biên giới Cao Lạng - Quảng Tây. 
+ Từ năm 1978 đến đầu năm 1979, mức độ xâm phạm lãnh thổ, hoạt động vũ trang mang tính khiêu khích tại biên giới Việt Nam của Trung Quốc ngày càng nghiêm trọng. Theo thống kê của Việt Nam, công bố trong Bị vong lục của Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 15/2/1979, số vụ xâm phạm vũ trang của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam năm 1978 là 583 vụ, trong tháng 1 và 2/ 1979 là 230 vụ. Không những vậy, Trung Quốc còn cho trên 100 lượt máy bay xâm phạm vùng trời và 481 lượt tàu thuyền hoạt động khiêu khích trên vùng biển Việt Nam mặc dù ta đã gửi công hàm yêu cầu phía Trung Quốc chấm dứt ngay tình trạng trên.
- Hải đảo
+ Từ năm 1973, Liên Hiệp Quốc bắt đầu thảo luận về vấn đề chủ quyền của các quốc gia đối với vùng đặc quyền kinh tế trên biển. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định tuyên bố chủ quyền với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dựa theo hiệp ước Pháp-Thanh kí kết năm 1887. Về phía Trung Quốc, với cuộc khủng hoảng dầu lửa những năm 1970 nước này đã tìm kiếm các nguồn khai thác dầu mỏ trên biển Đông sát với Việt Nam, một hành động mà theo Việt Nam là chiến lược bao vây đất nước họ. 
+ Ngày 10/9/1975, phía Trung Quốc gửi công hàm cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa (Hoàng Sa và Trường Sa). Tháng 9 năm 1975, trong chuyến viếng thăm Trung Quốc của Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam. Tổng Bí thư Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn nêu vấn đề Trung Quốc dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa và khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo này. Trong cuộc gặp ngày 24/9/1975, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình tuyên bố phía Trung Quốc có đầy đủ chứng cứ để khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Trung Quốc, nhưng cần theo nguyên tắc hiệp thương hữu nghị để giải quyết bất đồng. Đặng Tiểu Bình cũng bày tỏ hai bên có thể thương lượng để giải quyết vấn đề. 
+ Ngày 5/6/1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao cộng hòa miền Nam VN tuyên bố Việt Nam sẽ giành quyền bảo vệ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
+ Ngày 12/5/1977, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế 200 dặm và thềm lục địa Việt Nam, bao gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Phía họ phản ứng mạnh mẽ với tuyên bố này.
+ Ngày 30/7/1977, Ngoại trưởng Trung Quốc Hoàng Hoa tuyên bố: "Khi thời cơ đến chúng ta sẽ thu hồi toàn bộ quần đảo Nam Sa (quần đảo Trường Sa) mà không cần phải thương lượng gì hết".
+ Ngày 15/3/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Bị vong lục về vấn đề biên giới Việt -Trung, trong đó lên án việc Trung Quốc đánh chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
+ Ngày 28/9/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách trắng, giới thiệu 19 tài liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
* Vấn đề Hoa Kiều
+ Một lý do nữa khiến căng thẳng Việt Nam - Trung Quốc leo thang đó là vấn đề Hoa kiều tại Việt Nam. Trước năm 1975, có khoảng 1,5 triệu người gốc Hoa sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, 15% sống ở phía bắc vĩ tuyến 17 và 85% còn lại sinh sống ở miền Nam Việt Nam. Người Hoa đặc biệt có ảnh hưởng ở miền Nam Việt Nam, nơi họ hoạt động mạnh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Năm 1955, ở miền Bắc Việt Nam, theo thỏa thuận của Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, "người Hoa cư trú ở miền Bắc Việt Nam phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam" và dần dần chuyển thành công dân Việt Nam, được hưởng những quyền lợi như người Việt Nam và tự nguyện nhập quốc tịch Việt Nam. Năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ra chính sách buộc người Hoa phải nhập quốc tịch Việt Nam hoặc họ sẽ bị trục xuất khỏi lãnh thổ, ngược lại, Hà Nội và Bắc Kinh đồng ý trên nguyên tắc về việc cho phép Hoa kiều tự chọn lựa quốc tịch của mình. 
+ Tháng 4 năm 1978, Việt Nam tiến hành cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam. Trung Quốc coi việc Việt Nam trong quá trình tiến hành cải tạo công thương nghiệp, tịch thu tài sản của giới công thương người Hoa ở miền Nam Việt Nam là một sự thách thức chính sách bảo vệ Hoa kiều của Trung Quốc. Phản ứng lại chính sách cải tạo công thương của nhà nước Việt Nam, một phong trào đòi lấy quốc tịch Trung Quốc trong người Hoa ở Việt Nam nổi lên. Trung Quốc đưa ra chính sách "đoàn kết với giai cấp tư sản Hoa kiều", kêu gọi chống lại chính sách "bài Hoa" của Việt Nam; đồng thời, loan truyền trong cộng đồng người Việt gốc Hoa về một cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi giữa Việt Nam - Trung Quốc khiến cộng đồng người Hoa hoảng hốt.
+ Do ảnh hưởng của những yếu tố trên, trong năm 1978 cộng đồng người Hoa ở Việt Nam ồ ạt kéo về Trung Quốc. Từ năm 1977 đã có 70.000 Hoa kiều từ Việt Nam quay về Trung Quốc. Cho đến thời điểm xảy ra cuộc chiến đã có chừng 160.000 Hoa kiều hồi hương từ Việt Nam bằng đường biển hoặc đường bộ qua Cửa khẩu Hữu Nghị. Trung Quốc lập ra các trạm đón tiếp dọc theo biên giới hai nước. Sau đó, tháng 5 năm 1978, Trung Quốc đưa tàu sang đón người Hoa về Trung Quốc. Ngày 12 tháng 7 năm 1978, Trung Quốc đóng cửa biên giới Việt Nam – Trung Quốc, làm cho hàng vạn người Hoa muốn đi Trung Quốc bị kẹt lại tại biên giới. Do có quá nhiều người Hoa xin nhập cảnh vào Trung Quốc, nước này đưa ra điều kiện là người Hoa muốn về Trung Quốc phải chính thức xin giấy phép hồi hương do Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội cấp, cần có hộ chiếu xuất cảnh của chính quyền Việt Nam. 
2. Ý đồ thâm hiểm của Trung Quốc
2. a. Mục đích và mục tiêu của Trung Quốc
+ Tháng 11 năm 1978, Đặng Tiểu Bình công du Thái Lan, Malaysia và Singapore. Trong chuyến đi này, Đặng Tiểu Bình nói với lãnh đạo các nước này rằng Trung Quốc sẽ dùng vũ lực nếu Việt Nam tấn công Campuchia.
+ Ngày 7 tháng 12 năm 1978, Ủy ban Quân sự Trung ương Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa họp và ra quyết định mở một cuộc chiến hạn chế ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Cuộc chiến này sẽ được tiến hành một cách hạn chế, trong phạm vi 50 cây số từ biên giới và kéo dài hai tuần và ra chỉ thị cho các Quân khu Quảng Châu và Côn Minh chuẩn bị đầy đủ lực lượng trước ngày 10 tháng 1 năm 1979 để thực hi

Tài liệu đính kèm:

  • docnang_cao_hieu_biet_va_nhan_thuc_cho_hoc_sinh_thpt_ve_chien_t.doc