Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 trong môn Tiếng Việt
Giáo dục tiểu học là nền tảng của giáo dục phổ thông. Thành quả giáo dục tiểu học có tác dụng cơ bản lâu dài, có tính quyết định đối với cuộc đời mỗi người. Những đức tính trung thực, công bằng, cẩn thận, lễ phép, hiếu thảo và những kĩ năng cơ bản nghe, nói, đọc viết, tính toán. nếu không được hình thành vững chắc ở tiểu học thì sẽ khó có cơ hội hình thành và phát triển ở những cấp học cao hơn. Để đạt được những mục tiêu trên, môn Tiếng Việt đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách, phẩm chất của con người. Môn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh tri thức về ngôn ngữ học, trang bị cho học sinh công cụ để học tập tất cả các môn học khác trong nhà trường. Trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học các phân môn được thiết kế có một mối quan hệ mật thiết, bổ trợ nhau nhằm từng bước giúp các em làm chủ được công cụ ngôn ngữ để học tập, để giao tiếp một cách đúng đắn, mạch lạc, tự nhiên trong các môi trường xã hội thuộc phạm vi hoạt động lứa tuổi.
Không biết từ bao giờ, trải qua hàng ngàn năm tiến hóa của loài người, ngôn ngữ - tiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lí và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hóa, tính cách con người. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng:
“ Học ăn, học nói, học gói, học mở”
“ Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
MỤC LỤC TT Nội dung Trang 1 Mở đầu 1 1.1 Lí do chọn đề tài 1 1.2 Mục đích nghiên cứu 2 1.3 Đối tượng nghiên cứu 2 1.4 Phương pháp nghiên cứu 2 2 Nội dung 3 2.1 Cơ sở lí luận 3 2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN 3 2.3 Các giải pháp tổ chức thực hiện 5 2.4 Hiệu quả của SKKN 15 3 Kết luận, kiến nghị 16 3.1 Kết luận 16 3.2 Kiến nghị 17 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1 Lí do chọn đề tài. Giáo dục tiểu học là nền tảng của giáo dục phổ thông. Thành quả giáo dục tiểu học có tác dụng cơ bản lâu dài, có tính quyết định đối với cuộc đời mỗi người. Những đức tính trung thực, công bằng, cẩn thận, lễ phép, hiếu thảo và những kĩ năng cơ bản nghe, nói, đọc viết, tính toán... nếu không được hình thành vững chắc ở tiểu học thì sẽ khó có cơ hội hình thành và phát triển ở những cấp học cao hơn. Để đạt được những mục tiêu trên, môn Tiếng Việt đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách, phẩm chất của con người. Môn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh tri thức về ngôn ngữ học, trang bị cho học sinh công cụ để học tập tất cả các môn học khác trong nhà trường. Trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học các phân môn được thiết kế có một mối quan hệ mật thiết, bổ trợ nhau nhằm từng bước giúp các em làm chủ được công cụ ngôn ngữ để học tập, để giao tiếp một cách đúng đắn, mạch lạc, tự nhiên trong các môi trường xã hội thuộc phạm vi hoạt động lứa tuổi. Không biết từ bao giờ, trải qua hàng ngàn năm tiến hóa của loài người, ngôn ngữ - tiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lí và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hóa, tính cách con người. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng: “ Học ăn, học nói, học gói, học mở” “ Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Để đánh giá một con người, chúng ta cần phải có sự thử thách qua giao tiếp hàng ngày với họ: “ Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời”. Mặt khác việc giao tiếp, ứng xử khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về nhiều lĩnh vực. Với trẻ em, lứa tuổi đang hình thành nhân cách, ngay từ khi các em còn rất nhỏ, chúng ta đã rất chú trọng. Ngành giáo dục đào tạo nói chung và ngành giáo dục tiểu học nói riêng đã được xã hội trao cho trọng trách đáng tự hào là giáo dục trẻ em ngay từ những ngày đầu bước chân tới trường. Từ bao đời nay, việc giáo dục ở nhà trường đã áp dụng phương châm: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Dạy Tiếng Việt không có nghĩa là chỉ dạy các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà dạy các em biết sử dụng những lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một mảng vô cùng quan trọng. Chính vì vậy ngay từ đầu năm học 2017- 2018 tôi được phân công giảng dạy lớp 2B. Sau khi nhận lớp và tổ chức dạy học cho học sinh tôi nhận thấy: Việc tổ chức luyện nói cho học sinh trong học Tiếng Việt còn gặp nhiều khó khăn và kết quả học tập chưa cao. Giáo viên thường đưa ra, giáo viên gợi ý, đa phần học sinh nhắc lại các câu mẫu của giáo viên chỉ có một số rất ít nói được theo cách riêng của mình. Trên thực tế dạy học Tiếng Việt và đánh giá học sinh theo thông tư 22/2016/TT- BGDĐT, giáo viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức hoạt động luyện nói trong giờ học Tiếng Việt cho học sinh lớp 2. Các em chưa mạnh dạn, tự tin khi nói hoặc chưa thể diễn đạt được nội dung cần nói (do vốn kĩ năng ngôn ngữ còn ít). Vì vậy, để nâng cao hiệu quả dạy học Tiếng Việt, phát huy quan điểm dạy học Tiếng Việt hướng vào hoạt động giao tiếp cần phải có những biện pháp cụ thể để tổ chức hoạt động luyện nói cho học sinh ngay trong giờ học Tiếng Việt. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 trong môn Tiếng Việt” để trao đổi với các bạn đồng nghiệp giúp cho công tác giảng dạy trong nhà trường ngày một tốt hơn. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Trước hết, bản thân tìm ra những biện pháp phù hợp nhằm giúp trẻ mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tiếp đó là rèn cho học sinh những kĩ năng, thói quen dùng lời nói biểu cảm trong giao tiếp, cũng như sự bày tỏ quan điểm nhận thức của bản thân. Trước những vấn đề mà các em phải tự bộc lộ qua những lời nói, lời phát biểu, trả lời các câu hỏi theo nội dung bài học, khả năng giao tiếp với mọi người xung quanh ở trường, ở lớp. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: - Biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 trong môn Tiếng Việt. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Sử dụng phương pháp này khi nghiên cứu các tài liệu nói về vấn đề dạy học Tiếng Việt, nghiên cứu các bài viết, công trình nghiên cứu trên tập san, tạp chí,... có liên quan đến đề tài để làm cơ sở cho việc điều tra thực trạng. 2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin bằng các câu hỏi phỏng vấn: - Giáo viên trực tiếp giảng dạy khối 2. - Học sinh khối 2. 3. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận của skkn. Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính thức của cộng đồng các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Bởi thế, dạy Tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và trong đời sống của mỗi con người. Mục tiêu của chương trình Tiếng Việt tiểu học ngoài việc cung cấp kiến thức Tiếng Việt và thái độ, tình yêu Tiếng Việt còn phải giúp học sinh giao tiếp tốt trong môi trường hoạt động lứa tuổi. Vì thế việc sử dụng từ ngữ đúng, nắm rõ vào hoạt động giao tiếp qua đó bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của Tiếng Việt. Ngày xưa, ông bà ta rất coi trọng việc giao tiếp, ngôn ngữ, lời nói là trao đổi thông tin, đóng vai trò biểu hiện tình cảm, qua lời nói thể hiện văn hoá, tính nết của con người. Do vậy cần phải giáo dục, rèn luyện lời nói của các em ngay từ nhỏ, từ các lớp đầu cấp Tiểu học để sau này các em có thói quen cư xử đúng mực, lịch sự trong khi giao tiếp. Ông cha ta thường răn dạy con cháu qua các câu ca dao, tục ngữ như: “ Học ăn, học nói, học gói, học mở”; “ Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Hay câu: “ Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”. Ngoài ra, việc giao tiếp ứng xử khéo léo cũng giúp ta thành công trong nhiều lĩnh vực và trong công việc. 2.2. Thực trạng. 2.2.1. Về giáo viên: Trong nhiều năm qua tôi thấy đa số giáo viên đã nắm bắt được tầm quan trọng của việc dạy Tiếng Việt cho học sinh và có sự đầu tư nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy bước đầu có hiệu quả. Tuy nhiên, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn trong khi dạy. Qũy thời gian dành cho các phân môn của Tiếng Việt còn hạn chế. Qua thực tế tôi thấy việc rèn cho học sinh thực hiện đúng về nghi thức lời nói cũng như viết đoạn văn tốt chưa được giáo viên chú tâm nhiều. Một số giáo viên chưa nắm rõ ý đồ, nội dung các bài tập đưa ra, phương pháp dạy học còn đơn điệu, rập khuôn máy móc theo sách giáo viên, hầu như ít sáng tạo, chưa linh hoạt, chưa cuốn hút được học sinh. Giáo viên chưa quan tâm đến sửa câu, cách dùng từ đặt câu. Từ đó dẫn đến học sinh tiếp thu bài một cách thụ động, ít sáng tạo. Bên cạnh đó giáo viên chưa tập chung tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lí, môi trường sống của học sinh, chưa thật sự thông cảm với những khó khăn mà học sinh gặp phải nên khi tiến hành hỏi đáp chỉ yêu cầu những học sinh nói hay hoặc hay trả lời. Không mấy quan tâm đến những học sinh ít nói, nghèo nàn về ngôn ngữ, vì sợ gọi những em này trả lời sẽ làm mất nhiều thời gian. Vấn đề này vô tình giáo viên đã làm cho những học sinh rụt rè ngày càng trở nên nhút nhát hơn. 2.2.2. Về học sinh: ` Những năm gần đây tôi luôn được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 2. Trong quá trình dạy Tiếng Việt, tôi nhận thấy đa số học sinh có hứng thú trong giờ học, song chủ yếu tập chung vào các bài tập đọc, bài làm miệng với các yêu cầu học sinh cần diễn đạt bằng lời nói tôi thấy học sinh còn lúng túng. Mặc dù học sinh đã có vốn từ vựng nhất định và nắm được một số quy tắc giao tiếp trước khi đến trường Tiểu học nhưng các em còn mắc nhiều lỗi phát âm (thanh điệu, phụ âm đầu, phần vần, âm cuối). Lỗi dùng từ, cách thể hiện nét mặt, cử chỉ, điệu bộ khi thể hiện lời nói. Ngôn ngữ của học sinh mang bản sắc địa phương, nhiều em còn bỡ ngỡ, lúng túng khi thực hiện hoạt động nói. Đặc biệt là khi nói theo chủ đề, nói về một nội dung nhất định. Các em gặp khó khăn khi lựa chọn từ ngữ, sắp xếp từ ngữ đó thành câu và sắp xếp các ý cần nói. Vì vậy, các em chưa chủ động nói mà chỉ nói khi được hỏi (trả lời câu hỏi). Học sinh lớp 2 chưa có vốn từ phong phú, chưa sử dụng từ linh hoạt, việc nắm nghĩa của từ còn hạn chế. Việc vận dụng từ ngữ để đặt câu, tạo đoạn còn chưa linh hoạt, các ý cần nói chưa có sự chọn lọc và sắp xếp theo một trật tự từ lô gíc hợp lí. Vì vậy, các em thường nói tự do, nói không đủ câu, đủ ý, diễn đạt chưa mạch lạc, thường ngắc ngứ, lúng túng, bế tắc khi trình bày một vấn đề khó, cần huy động vốn từ lớn. Các em nói tự do theo suy nghĩ của mình, không chú ý tới cách thức nói, nghi thức nói và nội dung, mục đích của mình. Hơn nữa tâm lý của các em học sinh lớp 2 thường nhút nhát, không tự tin, sợ sệt khi giao tiếp với bạn bè, thầy cô, trước những nơi đông người. Điều đó dẫn đến hiệu quả giao tiếp bị hạn chế. Trước tình hình đó vào đầu tháng 9 năm học 2017-2018 tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng để tìm biện pháp khắc phục những tồn tại trên. * Kết quả khảo sát phần luyện nói trong môn Tiếng Việt: Lớp Sĩ Số HS nói đúng, nói hay (nói có kèm theo ngữ điệu, có cử chỉ, điệu bộ) Học sinh nói trôi trảy, rõ ràng, diễn đạt được nội dung HS hiểu nội dung câu hỏi nhưng trả lời còn ngượng ngùng Học sinh nói không đủ câu, đủ ý, diễn đạt còn ngắc ngứ, lúng túng. 2B 30 SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) 5 16,6 8 26.7 9 30 8 26,7 Qua khảo sát cho thấy số học sinh nói đúng, nói hay, nói trôi chảy chưa nhiều mà số học sinh diễn đạt câu còn ngắc ngứ, lúng túng còn cao. Từ thực tế giảng dạy, để khắc phục tình trạng trên tôi xin trình bày một số biện pháp cụ thể nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học Tiếng Việt. 2.3 Các biện pháp thực hiện. Biện pháp 1: Phân nhóm học sinh. Ở biện pháp này tôi sử dụng phương pháp quan sát, thu thập thông tin, tôi đã xử lí những thông tin ấy bằng cách phân tích, tổng hợp với những biện pháp thực hiện sau: Tôi tiến hành phân chia học sinh theo các nhóm: Nhóm 1: Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, mạch lạc, khi giao tiếp biết thể hiện lời nói biểu cảm, lịch sự. Những học sinh này tôi phân làm nhóm trưởng của các nhóm trong lớp, những nhân vật nòng cốt trong các tiểu phẩm của các tiết Tiếng Việt mà học sinh rèn luyện kĩ năng nói trên lớp. Những em này là người dẫn chương trình trong các giờ luyện nói. Nhóm 2: Nhóm học sinh có lời nói tương đối rõ ràng, trôi chảy, lịch sự nhưng chưa thể hiện được lời nói tình cảm trong giao tiếp. Nhóm 3: Nhóm học sinh nhút nhát, ngại giao tiếp, khả năng giao tiếp còn lúng túng, ít khi sử dụng lời nói lịch sự, tình cảm trong giao tiếp, nói năng cộc lốc, chưa diễn đạt trọn ý, trọn câu. Ví dụ: Trong tiết kể chuyện: Chuyện bốn mùa (Tiếng Việt, tập 2 - Trang 6) - Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh: + Phân vai theo từng nhân vật. - Người dẫn chuyện: Chọn học sinh nhóm 1. - Các nhân vật: Xuân, Hạ, Thu, Đông chọn học sinh ở nhóm 2 hoặc nhóm 3. - Giáo viên gọi từng nhóm lên thực hiện nhiệm vụ của mình. Biện pháp 2: Giúp học sinh luyện nói thông qua hệ thống bài tập. Với biện pháp này, học sinh thường xuyên được thực hành luyện tập “nói” trong tất cả các tiết học Tiếng Việt. Chính vì vậy khả năng giao tiếp của các em ngày càng được hoàn thiện. Việc “nói” sao cho trôi chảy, mạch lạc, lời văn thể hiện biểu cảm rõ ràng, từ đó giáo viên đánh giá một cách chính xác khả năng học tập của học sinh. Chính vì vậy tôi đã xây dựng hệ thống bài tập rèn kĩ năng nói cho học sinh dựa trên hệ thống nguyên tắc. Khi xây dưng hệ thống bài tập cần phải đảm bảo tính hệ thống. Bài tập được xây dựng theo hướng chú ý khai thác phát huy vốn ngôn ngữ và kinh nghiệm giao tiếp đã có của học sinh. Nội dung bài tập được xây dựng thể hiện yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học, tức là hệ thống bài tập được xây dựng và sử dụng dựa trên lí luận dạy học hiện đại - dạy học hướng vào hoạt động của người học. Để tham gia vào hoạt động giao tiếp tốt thì học sinh cần phải nghe, nói tốt. Trong giao tiếp cần rèn luyện kĩ năng nói phát âm chuẩn, nói trong các tình huống giao tiếp cụ thể, nói dựa theo câu hỏi định hướng hoặc trả lời câu hỏi, nói theo nội dung bài học. Trường hợp 1: Loại bài tập luyện phát âm theo chuẩn. Ở phần này, giáo viên chú ý đối tượng học sinh phát âm chưa chuẩn các từ tiếng khó cần rèn đọc trong phần luyện đọc ở tiết1. Lập danh sách những học sinh phát âm chưa chuẩn để rèn cho các em trước hết phải phát âm đúng, chính xác, từ đó các em mới bình tĩnh, tự tin phát biểu hay đưa ra những ý kiến riêng của bản thân, lời nói trong giờ luyện nói mới có thể tự nhiên, trong sáng. Cụ thể tôi lựa chọn các loại âm, vần địa phương thường phát âm sai chuẩn trong từng bài tập đọc để học sinh luyện phát âm thật đúng và chính xác. Điều quan trọng ở đây chính là bản thân giáo viên phải là người phát âm chuẩn và chính xác. Đa số học sinh trong lớp 2B do tôi làm chủ nhiệm các em thường phát âm sai ch/ tr, x/s, r/d, các nguyên âm đôi, phát âm sai thanh hỏi, thanh ngã. Do đó trong phần yêu cầu luyện đọc từ khó ở tất cả các bài tập đọc tôi luôn quan tâm lựa chọn những từ ngữ có âm đầu ch/tr, x/s, r/ d, các nguyên âm đôi và từ ngữ có chứa thanh hỏi, thanh ngã để học sinh luyện đọc nhiều. Bên cạnh đó, tùy theo nội dung của bài học giáo viên đưa ra những trò chơi giúp hoạt động vừa học vừa vui chơi thoải mái. Ví dụ: Tổ chức cho học sinh chơi trò chơi Thi đọc nhanh và đúng câu có âm đầu, vần, thanh dễ lẫn. Giáo viên tự nghĩ ra hoặc sưu tầm một số câu thơ, câu văn có những âm đầu, vần, thanh dễ đọc, viết lẫn lộn (do cách phát âm của địa phương) rồi ghi vào mảnh giấy “ làm đề bài” thi đọc trong nhóm. Lần lượt từng học sinh lên bốc thăm và đứng lên đọc to bài trước lớp, cả lớp nghe và đại diện một số học sinh đánh giá kết quả đọc của bạn theo tiêu chuẩn: đọc nhanh, phát âm đúng. Giáo viên nhận xét, tuyên dương bạn đọc tốt. Ví dụ minh họa: 1. Đọc phân biệt các âm đầu dễ lẫn: a. Phân biệt ch/ tr. Quê hương là cầu tre nhỏ Mẹ về nón lá nghiêng che Quê hương là đêm trăng tỏ Hoa cau rụng trắng ngoài thềm. b. Phân biệt x/s. Nhìn lên bầu trời đầy sao sáng, anh bộ đội biên phòng lại xôn xao nhớ đến những người thân ở quê. c. Đọc phân biệt các tiếng có thanh dễ lẫn( thanh hỏi, thanh ngã). Kẽo cà kẽo kẹt Bé Giang ngủ rồi Tóc bay phơ phất Vương vương nụ cười. Trường hợp 2: Loại bài tập tình huống Đây là loại bài tập để luyện tập các nghi thức lời nói và phát triển ngôn ngữ nói. Trong chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 2 đã tạo điều kiện cho học sinh được thực hành rất nhiều loại bài tập này. Trong các phần luyện nói ở các bài học Tập đọc-kể chuyện và Tập làm văn, Luyện từ và câu học sinh được chơi đóng vai, đóng kịch kể lại theo từng chủ điểm của bài học, học sinh được tham gia chơi đóng vai ông bà, cha mẹ và các cháu nhỏ, người bán hàng, người mua hàng... để luyện tập các nghi thức của lời nói (chào hỏi khi gặp mặt, chia tay, nói lời cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu đề nghị một việc gì đó...) Hoạt động này là một cách luyện tập phát triển ngôn ngữ qua hình thức vừa chơi vừa học, vừa phát triển ngôn ngữ nói, vừa giáo dục tác phong văn minh, lịch sự. Để giờ luyện nói đạt kết quả tốt, giáo viên cần dành thời gian nghiên cứu nội dung bài luyện nói để đưa ra những câu hỏi dẫn dắt sao cho phù hợp với nội dung bài cũng như phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình. Ngoài ra, giáo viên nên lưu ý thái độ của học sinh khi nói với từng đối tượng là lớn hơn mình, bằng mình hay nhỏ hơn mình thì có những đại từ xưng hô khác nhau và những cử chỉ thể hiện khác, tùy tình huống vui hay buồn. Khi nói lưu ý học sinh nên thể hiện cử chỉ tình cảm để câu nói thể hiện sự lễ phép, lịch sự. Mặt khác giáo viên không chỉ dạy cho học sinh thực hành giao tiếp trong tiết học mà còn phải giáo dục các em mọi lúc, mọi nơi trong cuộc sống hàng ngày với một thời gian dài. Điều quan trọng hơn nữa là giáo viên cần cho các em nắm rõ tình huống vì khi nói các em hay lầm lẫn giữa lời đáp và lời nói. Ví dụ: Em nói thế nào khi bạn xin lỗi em vì bạn đã làm bẩn áo em. Các em có thể bị lầm và nói là: - Xin lỗi bạn vì tớ lỡ làm bẩn áo bạn. Nguyên nhân là do các em chưa đọc kĩ đề, sự suy xét của các em còn non nớt. Bởi vậy, giáo viên cần tập cho các em đọc kĩ đề bài. Đặt mình vào tình huống của đề bài, cùng sắm vai theo tình huống đó. Có vậy các em mới không bị lầm lẫn. Và em có thể đáp lại lời xin lỗi của bạn là: "Không sao đâu, tớ sẽ nhờ mẹ tớ giặt là sạch ngay thôi mà." Với dạng bài nói và đáp lời khẳng định, phủ định có lẽ tương đối dễ với các em, các em chỉ cần nói có hoặc không. Tuy nhiên, giáo viên cần giải thích cho các em thuật ngữ khẳng định, phủ định. Vì nếu không giải thích, các em chỉ làm theo mẫu trong sách giáo khoa thì không thể phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh. Còn nếu ta giải thích thì khi vừa gặp dạng bài tập này các em sẽ nói, đáp tốt hơn. Bởi vậy giáo viên cần cho các em thực hành sắm vai và cần lưu ý tình cảm thể hiện qua thái độ. Ví dụ: Khi đáp lời khẳng định thì thể hiện sự vui mừng, đáp lời phủ định thể hiện sự tiếc nuối. Có thế thì người nghe mới hiểu được tình cảm của mình. Khi hướng dẫn học sinh thực hành về các nghi thức lời nói phải kết hợp cả cử chỉ, thái độ, tình cảm. Chính vì vậy trong quá trình giảng dạy tôi đã phân ra từng dạng bài theo từng trường hợp cụ thể. Từ đó tôi hướng dẫn cho các em thực hành về các nghi thức lời nói kết hợp cả cử chỉ, thái độ, tình cảm. a) Dạng bài: Chào hỏi hoặc tự giới thiệu; Đáp lại lời chào: Tôi hướng dẫn các em khi chào hỏi hoặc tự giới thiệu lời nói, giọng nói, vẻ mặt, ánh mắt, nụ cười,...phải tùy từng đối tượng mình gặp gỡ và những điều này cũng chứa đựng nội dung tiếp xúc. Cách chào hỏi, cách xưng hô phải phù hợp với từng người, từng hoàn cảnh cụ thể. Lời chào hỏi cần tự nhiên, lịch sự, cử chỉ thân mật. Khi đáp lại lời chào, tôi hướng cho học sinh cần nói thế nào để tỏ thái độ lịch sự, thân mật. Khi đáp lại lời tự giới thiệu cần nói thế nào để tỏ thái độ vui vẻ, phấn khởi, đón chào. Đối với dạng bài này tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi phỏng vấn. Trò chơi này có thể áp dụng vào bài tập 1, Tuần 1(Tiếng Việt 2, tập 1). Tự giới thiệu: Câu và bài. * Mục đích của trò chơi: - Luyện tập cách giới thiệu về mình và về người
Tài liệu đính kèm:
- mot_so_kinh_nghiem_ren_ki_nang_noi_cho_hoc_sinh_lop_2_trong.doc