Chuyên đề Bồi dưỡng một số kỹ năng biện luận tìm công thức hóa học

Nghị quyết Quốc hội khóa X kì họp thứ 8 về công tác đổi mới giáo dục phổ thông với mục tiêu là xây dựng chương trình và phương pháp giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục ở các nước trong khu vực và trên thế giới.
Để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục người giáo viên cần phải có sự hiểu biết và nắm bắt chắc chắn những sự thay đổi về nội dung và phương pháp giảng dạy cũng như những yêu cầu trong đổi mới phương pháp. Đó là lấy học trò làm trung tâm, phát huy tính tích cực của học sinh. Học sinh tự tìm tòi kiến thức, vận dụng những kiến thức đã học vào quá trình giải các bài tập và vào thực tế đời sống.
Trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ngoài việc rèn luyện các kỹ năng cho học sinh còn một vấn đề hết sức quan trọng nữa là kiến thức của người thầy. Là một giáo viên giảng dạy môn hóa học đòi hỏi giáo viên phải có một vốn kiến thức sâu rộng, phải biết phân loại các dạng bài tập và phát triên các dạng bài tập ấy ở dạng cao hơn thành các chuyên đề. Qua đó giúp học sinh nắm kĩ hơn kiến thức và đi sâu vào các dạng bài tập cơ bản, bài tập nâng cao, hệ thống hóa được chương trình đã học và có tính sáng tạo trong học tập, trong việc giải toán hóa học.
BỒI DƯỠNG MỘT SỐ KỸ NĂNG BIỆN LUẬN TÌM CÔNG THỨC HÓA HỌC PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ A- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI I- CƠ SỞ LÍ LUẬN. Nghị quyết Quốc hội khóa X kì họp thứ 8 về công tác đổi mới giáo dục phổ thông với mục tiêu là xây dựng chương trình và phương pháp giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục ở các nước trong khu vực và trên thế giới. Để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục người giáo viên cần phải có sự hiểu biết và nắm bắt chắc chắn những sự thay đổi về nội dung và phương pháp giảng dạy cũng như những yêu cầu trong đổi mới phương pháp. Đó là lấy học trò làm trung tâm, phát huy tính tích cực của học sinh. Học sinh tự tìm tòi kiến thức, vận dụng những kiến thức đã học vào quá trình giải các bài tập và vào thực tế đời sống. Trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ngoài việc rèn luyện các kỹ năng cho học sinh còn một vấn đề hết sức quan trọng nữa là kiến thức của người thầy. Là một giáo viên giảng dạy môn hóa học đòi hỏi giáo viên phải có một vốn kiến thức sâu rộng, phải biết phân loại các dạng bài tập và phát triên các dạng bài tập ấy ở dạng cao hơn thành các chuyên đề. Qua đó giúp học sinh nắm kĩ hơn kiến thức và đi sâu vào các dạng bài tập cơ bản, bài tập nâng cao, hệ thống hóa được chương trình đã học và có tính sáng tạo trong học tập, trong việc giải toán hóa học. II- CƠ SỞ THỰC TẾ. Dạy và học hóa học ở các trường hiện nay đã và đang được đổi mới tích cực nhằm góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của trường THCS. Ngoài nhiệm vụ nâng cao chất lượng hiểu biết kiến thức và vận dụng kỹ năng, các nhà trường phải chú trọng tới công tác bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp; coi trọng việc hình thành và phát triển tiềm lực trí tuệ cho học sinh. Đây là một nhiệm vụ không phải trường nào cũng có thể làm tốt vì nhiều lí do. Có thể nêu ra một số lí do như: Do môn học mới đối với bậc THCS nên kiến thức kỹ năng của học sinh còn nhiều chỗ khuyết; một bộ phận giáo viên chưa có đủ tư liệu cũng như kinh nghiệm để đảm nhiệm công việc dạy học sinh giỏi Trong những năm gần đây, vấn đề bồi dưỡng học sinh dự thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh được phòng giáo dục đào tạo đặc biệt quan tâm, được các nhà trường và các bậc cha mẹ học sinh nhiệt tình ủng hộ. Giáo viên được phân công dạy bồi dưỡng đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhờ vậy số lượng và chất lượng đội tuyển học sinh giỏi của huyện đạt cấp tỉnh khá cao. Tuy nhiên trong thực tế dạy bồi dưỡng học sinh giỏi còn nhiều khó khăn cho cả thầy và trò. Nhất là trong những năm đầu tỉnh ta tổ chức thi học sinh giỏi hóa học cấp THCS. Là một giáo viên được thường xuyên tham gia bồi dưỡng đội tuyển HS giỏi, tôi đã được tiếp xúc với một số đồng nghiệp đồng môn, khảo sát từ thực tế và đã thấy được nhiều 1 PHẦN II – NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI A- NỘI DUNG I- CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BÀI TOÁN BIỆN LUẬN TÌM CÔNG THỨC HÓA HỌC Trong hệ thống các bài tập hoá học, loại toán tìm công thức hóa học là rất phong phú và đa dạng. Về nguyên tắc để xác định một nguyên tố hóa học là nguyên tố nào thì phải tìm bằng được nguyên tử khối của nguyên tố đó. Từ đó xác định được CTPT đúng của các hợp chất. Có thể chia bài tập tìm CTHH thông qua phương trình hóa học thành hai loại cơ bản: - Loại 1 : Bài toán cho biết hóa trị của nguyên tố, chỉ cần tìm nguyên tử khối để kết luận tên nguyên tố; hoặc ngược lại ( Loại này thường đơn giản hơn ). - Loại 2 : Không biết hóa trị của nguyên tố cần tìm ; hoặc các dữ kiện thiếu cơ sở để xác định chính xác một giá trị nguyên tử khối. (hoặc bài toán có quá nhiều khả năng có thể xảy ra theo nhiều hướng khác nhau ). Cái khó của bài tập loại 2 là các dữ kiện thường thiếu hoặc không cơ bản và thường đòi hỏi người giải phải sử dụng những thuật toán phức tạp, yêu cầu về kiến thức và tư duy hóa học cao; học sinh khó thấy hết các trường hợp xảy ra. Để giải quyết các bài tập thuộc loại này, bắt buộc HS phải biện luận. Tuỳ đặc điểm của mỗi bài toán mà việc biện luận có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau: +) Biện luận dựa vào biểu thức liên lạc giữa khối lượng mol nguyên tử (M) và hóa trị ( x ) : M = f (x) (trong đó f(x) là biểu thức chứa hóa trị x). Từ biểu thức trên ta biện luận và chọn cặp nghiệm M và x hợp lý. +) Nếu đề bài cho không đủ dữ kiện, hoặc chưa xác định rõ đặc điểm của các chất phản ứng, hoặc chưa biết loại các sản phẩm tạo thành , hoặc lượng đề cho gắn với các cụm từ chưa tới hoặc đã vượt thì đòi hỏi người giải phải hiểu sâu sắc nhiều mặt của các dữ kiện hoặc các vấn đề đã nêu ra. Trong trường hợp này người giải phải khéo léo sử dụng những cơ sở biện luận thích hợp để giải quyết. Chẳng hạn: tìm giới hạn của ẩn (chặn trên và chặn dưới ), hoặc chia bài toán ra nhiều trường hợp để biện luận, loại những trường hợp không phù hợp .v.v. Tôi nghĩ, giáo viên làm công tác bồi dưỡng học sinh giỏi sẽ không thể đạt được mục đích nếu như không chọn lọc, nhóm các bài tập biện luận theo từng dạng, nêu đặc điểm của dạng và xây dựng hướng giải cho mỗi dạng. Đây là khâu có ý nghĩa quyết định trong công tác bồi dưỡng vì nó là cẩm nang giúp HS tìm ra được hướng giải một cách dễ dàng, hạn chế tối đa những sai lầm trong quá trình giải bài tập, đồng thời phát triển được tìm lực trí tuệ cho học sinh (thông qua các bi tập tương tự mẫu và các bi tập vượt mẫu ). Trong phạm vi của đề tài này, tôi xin được mạn phép trình bày kinh nghiệm bồi dưỡng một số dạng bài tập biện luận tìm công thức hóa học. Nội dung đề tài được sắp xếp theo 5 dạng, mỗi dạng có nêu nguyên tắc áp dụng và các ví dụ minh hoạ. 3 1.2- Các phương pháp hỗ trợ Ngoài các phương pháp chủ yếu, tôi còn dùng một số phương pháp hỗ trợ khác như phương pháp nghiên cứu tài liệu và điều tra nghiên cứu: Đối tượng điều tra: Các HS giỏi đã được phòng giáo dục gọi vào đội tuyển, đội ngũ giáo viên tham gia bồi dưỡng HS giỏi. Câu hỏi điều tra: Chủ yếu tập trung các nội dung xoay quanh việc dạy và học phương pháp giải bài toán biện luận tìm CTHH; điều tra tình cảm thái độ của HS đối với việc tiếp xúc với các bài tập biện luận. 2- Nội dung đề tài: Khi thực hiện đề tài vào giảng dạy, trước hết tôi giới thiệu sơ đồ định hướng giải bài toán biện luận tìm CTHH dùng chung cho tất cả các dạng; gồm 5 bước cơ bản: B1: Đặt CTTQ cho chất cần tìm, đặt các ẩn số nếu cần ( số mol, M, hóa trị ) B2: Chuyển đổi các dữ kiện thành số mol ( nếu được ) B3: Viết tất cả các PTPƯ có thể xảy ra B4: Thiết lập các phương trình toán hoặc bất phương trình liên lạc giữa các ẩn số với các dữ kiện đã biết. B5: Biện luận, chọn kết quả phù hợp. Tiếp theo, tôi tiến hành bồi dưỡng kỹ năng theo dạng. Mức độ rèn luyện từ minh họa đến khó, nhằm bồi dưỡng học sinh phát triển kỹ năng từ biết làm đến đạt mềm dẻo, linh hoạt và sáng tạo. Để bồi dưỡng mỗi dạng tôi thường thực hiện theo các bước sau: B1: Giới thiệu nguyên tắc và phương pháp áp dụng. B2: Đưa ra bài tập mẫu và hướng dẫn giải. B3: Học sinh tự luyện và nâng cao. Tuỳ độ khó mỗi dạng tôi có thể hoán đổi thứ tự của bước 1 và 2. Sau đây là một số dạng bài tập biện luận, cách nhận dạng, kinh nghiệm giải quyết đã được tôi thực hiện và đúc kết từ thực tế. Trong giới hạn của đề tài, tôi chỉ nêu 5 dạng thường gặp, trong đó dạng 5 hiện nay tôi đang thử nghiệm và thấy có hiệu quả. DẠNG 1: BIỆN LUẬN THEO ẨN SỐ TRONG GIẢI PHƯƠNG TRÌNH 1) Nguyên tắc áp dụng: GV cần cho HS nắm được một số nguyên tắc và phương pháp giải quyết dạng bài tập này như sau: - Khi giải các bài toán tìm CTHH bằng phương pháp đại số, nếu số ẩn chưa biết nhiều hơn số phương trình toán học thiết lập được thì phải biện luận. Dạng này thường gặp trong các trường hợp không biết nguyên tử khối và hóa trị của nguyên tố, hoặc tìm chỉ số nguyên tử các bon trong phân tử hợp chất hữu cơ - Phương pháp biện luận: +) Thường căn cứ vào đầu bài để lập các phương trình toán 2 ẩn: y = f(x), chọn 1 ẩn làm biến số ( thường chọn ẩn có giới hạn hẹp hơn. VD : hóa trị, chỉ số ); còn ẩn kia được xem là hàm số. Sau đó lập bảng biến thiên để chọn cặp giá trị hợp lí. 5 lập biểu thức toán : số mol hiđrat = số mol muối khan. Lưu ý HS : do phần rắn kết tinh có ngậm nước nên lượng nước thay đổi. * Giải: 0 S( 80 C) = 28,3 gam trong 128,3 gam ddbh có 28,3g R2SO4 và 100g H2O Vậy : 1026,4gam ddbh 226,4 g R2SO4 và 800 gam H2O. Khối lượng dung dịch bão hoà tại thời điểm 100C: 1026,4 395,4 = 631 gam 0 Ở 10 C, S(R2SO4 ) = 9 gam, nên suy ra: 109 gam dung dịch bão hòa có chứa 9 gam R2SO4 6319 Vậy 631 gam dung dịch bão hòa có khối lượng R2SO4 là : 52,1gam 109 Khối lượng R2SO4 khan có trong phần hiđrat bị tách ra : 226,4 – 52,1 = 174,3 gam 395,4 174,3 Vì số mol hiđrat = số mol muối khan nên : 2R 96 18n 2R 96 442,2R - 3137,4x + 21206,4 = 0 R = 7,1n 48 Đề cho R là kim loại kiềm , 7 < n < 12 , n nguyên Ta có bảng biện luận: N 8 9 10 11 R 8,8 18,6 23 30,1 Kết quả phù hợp là n = 10 , kim loại là Na công thức hiđrat là Na2SO4.10H2O DẠNG 2 : BIỆN LUẬN THEO TRƯỜNG HỢP 1) Nguyên tắc áp dụng: - Đây là dạng bài tập thường gặp chất ban đầu hoặc chất sản phẩm chưa xác định cụ thể tính chất hóa học ( chưa biết thuộc nhóm chức nào, Kim loại hoạt động hay kém hoạt động, muối trung hòa hay muối axit ) hoặc chưa biết phản ứng đã hoàn toàn chưa. Vì vậy cần phải xét từng khả năng xảy ra đối với chất tham gia hoặc các trường hợp có thể xảy ra đối với các sản phẩm. - Phương pháp biện luận: +) Chia ra làm 2 loại nhỏ : Biện luận các khả năng xảy ra đối với chất tham gia và biện luận các khả năng đối với chất sản phẩm. +) Phải nắm chắc các trường hợp có thể xảy ra trong quá trình phản ứng. Giải bài toán theo nhiều trường hợp và chọn ra các kết quả phù hợp. 2) Các ví dụ: Ví dụ 1: Hỗn hợp A gồm CuO và một oxit của kim loại hóa trị II (không đổi) có tỉ lệ mol 1: 2. Cho khí H2 dư đi qua 2,4 gam hỗn hợp A nung nóng thì thu được hỗn hợp rắn B. Để hòa tan hết rắn B cần dùng đúng 80 ml dung dịch HNO 3 1,25M và thu được khí NO duy nhất. Xác định công thức hóa học của oxit kim loại. Biết rằng các phản ứng xảy ra hoàn toàn. * Gợi ý HS: 7
Tài liệu đính kèm:
chuyen_de_boi_duong_mot_so_ky_nang_bien_luan_tim_cong_thuc_h.doc