SKKN Tổ chức hoạt động học phần bài tập xác suất của biến cố (đại số và giải tích 11) theo phương pháp tích hợp nhằm phát triển năng lực học sinh

SKKN Tổ chức hoạt động học phần bài tập xác suất của biến cố (đại số và giải tích 11) theo phương pháp tích hợp nhằm phát triển năng lực học sinh

Đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đang trở thành nhu cầu tất yếu của ngành giáo dục Việt Nam nhằm hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng dạy và học. Đó là: Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình. Tự đổi mới cũng là con đường đưa giáo dục Việt Nam hòa nhập với nền giáo dục hiện đại toàn cầu, tiến kịp nền giáo dục tiên tiến của các quốc gia trên thế giới. Một trong những phương pháp đổi mới đem lại hiệu quả khá cao trong nhà trường hiện nay đó là phương pháp tích hợp. Phương pháp tích hợp cho phép GV có thể vừa dạy kiến thức, vừa dạy kỹ năng sống, vừa dạy cách làm người, giúp HS chiếm lĩnh tri thức và hình thành được nhiều kỹ năng. Dạy học tích hợp làm cho bài học, đặc biệt là các bài học môn Toán trở nên sinh động hơn giúp HS hứng thú hơn, từ đó việc học sẽ nhẹ nhàng và đạt hiệu quả cao.

 Trong chương trình phổ thông, môn Toán có vai trò, vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng. Cùng với việc tạo điều kiện cho HS kiến tạo những tri thức và rèn luyện những kĩ năng toán học cần thiết, môn Toán có tác dụng góp phần phát triển năng lực trí tuệ chung như phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa., rèn luyện những đức tính cẩn thận, chính xác, tính kỉ luật, tính sáng tạo. Học Toán còn giúp cho chúng ta có tư duy logic, rành mạch, điều này sẽ giúp cho việc tiếp cận với các lĩnh vực, các tình huống trong thực tế trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên chương trình SGK môn Toán có thể nói là “khá khô khan” đối với HS, đa số GV khi dạy còn nặng về lý thuyết và tính toán, chỉ truyền thụ kiến thức một chiều, chưa chú trọng đến phát triển năng lực HS. Thậm chí, nhiều HS đã thốt lên: “ Cô ơi, học cái này để làm gì ạ ?” Đó là do các em chưa thấy hết được những mối quan hệ giữa Toán học và các môn học khác cũng như chưa thấy hết được những ứng dụng thực tế của Toán học. Vì thế, việc học Toán đối với các em trở nên nhàm chán.

 

docx 27 trang thuychi01 16804
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tổ chức hoạt động học phần bài tập xác suất của biến cố (đại số và giải tích 11) theo phương pháp tích hợp nhằm phát triển năng lực học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
TRƯỜNG THCS&THPT THỐNG NHẤT
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC PHẦN BÀI TẬP XÁC SUẤT CỦA BIẾN CỐ (ĐẠI SỐ VÀ GIẢI TÍCH 11) THEO 
PHƯƠNG PHÁP TÍCH HỢP NHẰM PHÁT TRIỂN
 NĂNG LỰC HỌC SINH
Người thực hiện: Lê Thị Thanh Hoa
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Toán
THANH HOÁ NĂM 2018
QUY ƯỚC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GV: Giáo viên
HS: Học sinh
HĐ: Hoạt động
HĐTP: Hoạt động thành phần
CH: Câu hỏi
GD: Giáo dục
DH: Dạy học
SGK: Sách giáo khoa
 THPT: Trung học phổ thông
10. NXB: Nhà xuất bản.
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1
1.1 Lý do chọn đề tài
1
1.2 Mục đích nghiên cứu
2
1.3 Đối tượng nghiên cứu
2
1.4 Phương pháp nghiên cứu
2
2. PHẦN NỘI DUNG
2
2.1 Cơ sở lý luận
2
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 
3
2.3 Xây dựng bài học môn Toán theo định hướng phát triển năng lực
4
2.4 Tổ chức HĐ học: “BÀI TẬP XÁC SUẤT CỦA BIẾN CỐ” bằng phương pháp tích hợp nhằm phát triển năng lực học sinh.
7
2.5 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
20
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
21
3.1 Kết luận
21
3.2 Kiến nghị
21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
23
DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI
24
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
	Đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đang trở thành nhu cầu tất yếu của ngành giáo dục Việt Nam nhằm hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng dạy và học. Đó là: Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình. Tự đổi mới cũng là con đường đưa giáo dục Việt Nam hòa nhập với nền giáo dục hiện đại toàn cầu, tiến kịp nền giáo dục tiên tiến của các quốc gia trên thế giới. Một trong những phương pháp đổi mới đem lại hiệu quả khá cao trong nhà trường hiện nay đó là phương pháp tích hợp. Phương pháp tích hợp cho phép GV có thể vừa dạy kiến thức, vừa dạy kỹ năng sống, vừa dạy cách làm người, giúp HS chiếm lĩnh tri thức và hình thành được nhiều kỹ năng. Dạy học tích hợp làm cho bài học, đặc biệt là các bài học môn Toán trở nên sinh động hơn giúp HS hứng thú hơn, từ đó việc học sẽ nhẹ nhàng và đạt hiệu quả cao.
	Trong chương trình phổ thông, môn Toán có vai trò, vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng. Cùng với việc tạo điều kiện cho HS kiến tạo những tri thức và rèn luyện những kĩ năng toán học cần thiết, môn Toán có tác dụng góp phần phát triển năng lực trí tuệ chung như phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa..., rèn luyện những đức tính cẩn thận, chính xác, tính kỉ luật, tính sáng tạo. Học Toán còn giúp cho chúng ta có tư duy logic, rành mạch, điều này sẽ giúp cho việc tiếp cận với các lĩnh vực, các tình huống trong thực tế trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên chương trình SGK môn Toán có thể nói là “khá khô khan” đối với HS, đa số GV khi dạy còn nặng về lý thuyết và tính toán, chỉ truyền thụ kiến thức một chiều, chưa chú trọng đến phát triển năng lực HS. Thậm chí, nhiều HS đã thốt lên: “ Cô ơi, học cái này để làm gì ạ ?” Đó là do các em chưa thấy hết được những mối quan hệ giữa Toán học và các môn học khác cũng như chưa thấy hết được những ứng dụng thực tế của Toán học. Vì thế, việc học Toán đối với các em trở nên nhàm chán.
          Bản thân thấy rõ tầm quan trọng của việc dạy và học môn Toán trong trường phổ thông, đồng thời muốn phát huy cao hơn nữa hiệu quả trong giảng dạy theo tinh thần đổi mới sách giáo khoa giúp học sinh tiết kiệm thời gian học tập mà vẫn mang lại hiệu quả nhận thức, có thể tránh được những biểu hiện cô lập, tách rời từng phương diện kiến thức, đồng thời phát triển năng lực, tư duy biện chứng, khả năng thông hiểu và vận dụng kiến thức linh hoạt vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Là một GV trực tiếp giảng dạy, trong quá trình thực hiện chương trình môn Toán, tôi thấy rõ tính ưu việt của phương pháp dạy học tích hợp thể hiện qua thái độ, niềm say mê, sự hứng thú, kết quả tiếp nhận của HS trong từng bài học. 
 Từ những lý do trên, tôi mạnh dạn thực hiện đề tài “Tổ chức hoạt động học phần bài tập xác suất của biến cố theo phương pháp tích hợp nhằm phát triển năng lực học sinh”.
1.2 Mục đích nghiên cứu 
- Góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Toán nói chung và dạy học chủ đề “Xác suất của biến cố” nói riêng.
- Giúp học sinh nâng cao hứng thú học tập môn Toán và phát triển năng lực.
- Giúp học sinh vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống trong thực tiễn. 
1.3 Đối tượng nghiên cứu
- Lí thuyết về dạy học tích hợp, kĩ thuật tổ chức hoạt động học nhằm phát triển năng lực học sinh.
- Thiết kế bài học “ Bài tập xác suất của biến cố” theo phương pháp tích hợp.
- Biện pháp tổ chức hoạt động học khi dạy “Bài tập xác suất của biến cố”.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp quan sát (Thông qua dự giờ)
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp phân tích – tổng hợp, thống kê, đối chiếu, so sánh
Phương pháp thực nghiệm sư phạm
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận
2.1.1 Quan điểm tích hợp trong dạy học nói chung
Tích hợp là một trong những quan điểm GD đã trở thành xu thế trong việc xác định nội dung DH trong nhà trường phổ thông và trong xây dựng chương trình môn học ở nhiều nước trên thế giới. Quan điểm tích hợp được xây dựng trên cơ sở những quan niệm tích cực về quá trình học tập và quá trình DH. Đưa tư tưởng sư phạm tích hợp vào trong quá trình dạy học là cần thiết. 
Thực tiễn ở nhiều nước đã chứng tỏ rằng, việc thực hiện quan điểm tích hợp trong GD và DH sẽ giúp phát triển những năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp và làm cho việc học tập trở nên ý nghĩa hơn đối với HS so với việc các môn học, các mặt GD được thực hiện riêng rẽ. Tích hợp là một trong những quan điểm GD nhằm nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo những người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện đại. Nhiều nước trong khu vực Châu Á và trên thế giới đã thực hiện quan điểm tích hợp trong DH và cho rằng quan điểm này đã đem lại hiệu quả nhất định.
Tư tưởng tích hợp bắt nguồn từ cơ sở khoa học và đời sống. Trước hết phải thấy rằng cuộc sống là một bộ đại bách khoa toàn thư, là một  tập đại thành của tri thức, kinh nghiệm và phương pháp. Mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống bao giờ cũng là những tình huống tích hợp. Không thể giải quyết một vấn đề và nhiệm vụ nào của lí luận và thực tiễn mà lại không sử dụng tổng hợp và phối hợp kinh nghiệm kĩ năng đa ngành của nhiều lĩnh vực khác nhau. Tích hợp trong nhà trường sẽ giúp HS học tập thông minh và vận dụng sáng tạo kiến thức, kĩ năng và phương pháp của khối lượng tri thức toàn diện, hài hòa, hợp lí trong giải quyết các tình huống khác nhau và mới mẻ trong cuộc sống hiện đại.
Quan điểm tích hợp và phương pháp DH theo hướng tích hợp đã được GV tiếp nhận nhưng ở mức độ thấp. Phần lớn GV lựa chọn mức độ  tích hợp “liên môn”  hoặc tích hợp “nội môn”. Các bài dạy theo hướng tích hợp sẽ làm cho kiến thức sách vở gắn liền với thực tiễn, với sự phát triển của cộng đồng. Học theo hướng tích hợp sẽ giúp cho các em quan tâm hơn đến con người và xã hội ở xung quanh mình, việc học gắn liền với cuộc sống đời thường là một yếu tố thúc đẩy các em học tập. Những thắc mắc nảy sinh từ thực  tế làm nảy sinh nhu cầu giải quyết vấn đề của các em [11]
2.1.2 Quan điểm tích hợp trong dạy học Toán ở nhà trường phổ thông
Thiết kế bài học môn Toán theo quan điểm tích hợp không chỉ chú trọng nội dung kiến thức tích hợp mà cần thiết phải xây dựng một hệ thống việc làm, thao tác tương ứng nhằm tổ chức, dẫn dắt HS từng bước thực hiện để chiếm lĩnh đối tượng học tập, nội dung môn học, đồng thời hình thành và phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp, tránh áp đặt một cách làm duy nhất. Giờ học Toán theo quan điểm tích hợp phải là một giờ học HĐ phức hợp đòi hỏi sự tích hợp các kĩ năng, năng lực liên môn để giải quyết nội dung tích hợp, chứ không phải sự tác động các hoạt động, kĩ năng riêng rẽ lên một nội dung riêng rẽ thuộc “nội bộ phân môn”.
Ngày nay nhiều lí thuyết hiện đại về quá trình học tập đã nhấn mạnh rằng hoạt động của HS trước hết là học cách học. Theo ý nghĩa đó, quan điểm dạy học tích hợp đòi hỏi GV phải có cách dạy chú trọng phát triển ở HS cách thức lĩnh hội kiến thức và năng lực, phải dạy cho HS cách thức hành động để hình thành kiến thức và kĩ năng cho chính mình, phải có cách dạy buộc HS phải tự đọc, tự học để hình thành thói quen tự đọc, tự học suốt đời, coi đó là một hoạt động xuyên suốt quá trình học tập ở nhà trường.
 Quan điểm dạy học tích hợp hay dạy cách học, dạy tự đọc, tự học không coi nhẹ việc cung cấp tri thức cho HS. Vấn đề là phải xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện kĩ năng và hình thành, phát triển năng lực cho HS. Đây thực chất là biến quá trình truyền thụ tri thức thành quá trình HS tự chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng. Muốn vậy, không chỉ cần khắc phục khuynh hướng dạy tri thức hàn lâm thuần tuý, mà còn cần khắc phục khuynh hướng rèn luyện kĩ năng theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa, ít có khả năng sử dụng giải quyết những tình huống thực tiễn. 
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Qua nhiều năm giảng dạy môn Toán, tôi nhận thấy phương pháp DH truyền thống chưa đem lại được hứng thú học tập cho cho HS: các em thấy “ngại” học Toán, thường chỉ biết áp dụng công thức một cách máy móc và các em không hiểu học các công thức về nguyên hàm, tích phân, xác suất,...để làm gì? Thậm chí, có em đã học THPT nhưng vẫn không thể tính được diện tích ngôi nhà hay mảnh đất của bố mẹ mình, không tính được số lượng gạch để xây nhà khoảng bao nhiêu, ...HS chỉ biết giải các bài toán trong sách vở mà chưa thấy mối liên hệ giữa kiến thức được học với thực tiễn.
Chính vì thế, DH theo quan điểm tích hợp là một xu hướng tất yếu của DH hiện đại, là biện pháp để tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS. HS được rèn luyện thói quen tư duy, nhận thức vấn đề một cách có hệ thống và lôgic. Qua đó HS cũng thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các kiến thức được học trong chương trình, vận dụng các kiến thức lí thuyết và các kĩ năng thực hành, đưa được những kiến thức Toán học vào giải quyết các tình huống thực tiễn. 
Thực tế cho thấy, khi áp dụng hình thức DH này, HS tỏ ra rất hào hứng với nội dung bài học, vốn kiến thức tổng hợp của HS được bổ sung nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả. Mặt khác, các kiến thức liên ngành thông qua hình thức tích hợp này còn giúp HS có thêm căn cứ, cơ sở để hiểu rõ hơn nội dung, ý nghĩa của bài học.
2.3 Xây dựng bài học môn Toán theo định hướng phát triển năng lực
2.3.1 Quan niệm về “bài học” 
Theo nghĩa hẹp, ‘‘bài học ’’ là một tên bài cụ thể, thuộc một phân môn trong SGK, chẳng hạn : Quy tắc đếm, Cấp số cộng,... nhằm cung cấp một đơn vị kiến thức hoặc góp phần hình thành một kĩ năng cho HS. Các bài học trong SGK Toán hiện hành đang được biên soạn theo hướng này. 
Theo nghĩa rộng, ‘‘bài học ’’ là một chủ đề hoặc chuyên đề. Trong một ‘‘bài học’’ theo nghĩa rộng sẽ có nhiều đơn vị kiến thức và kĩ năng, thuộc một hoặc nhiều phân môn nhằm hướng tới giải quyết một hoặc một số vấn đề để hình thành một kĩ năng/năng lực cho HS . Đây là dạng bài học (Unit) xuất hiện trong SGK của nhiều nước trên thế giới. 
2. 3.2 Tổ chức hoạt động học của một bài học môn Toán nhằm phát triển năng lực HS
Để phát triển năng lực của HS trong giờ học Toán, cần đổi mới mạnh mẽ mô hình tổ chức DH trong việc thiết kế bài học từ phía GV. Trong thiết kế, GV phải cho thấy rõ các hoạt động của HS chiếm vị trí chủ yếu trong tiến trình tổ chức DH. Bằng việc vận dụng thuyết kiến tạo vào DH, các bài học trong sách hướng dẫn HS được thiết kế theo định hướng hình thành và phát triển năng lực của HS theo tiến trình của hoạt động học, với các bước: HĐ khởi động – HĐ hình thành kiến thức – HĐ luyện tập – HĐ vận dụng- HĐ tìm tòi mở rộng, GV có thể tham khảo và vận dụng cách làm này để đổi mới phương pháp DH Toán, góp phần phát triển năng lực cho HS. Mô hình tổ chức DH này có thể áp dụng cho cả hai loại bài học (theo nghĩa rộng và hẹp) như đã nêu ở tất cả các phân môn Đại số, Hình học, Giải tích trong chương trình và SGK Toán THPT. Mục đích, nội dung và cách thức tiến hành của mỗi bước như sau: 
2.3.2.1 Hoạt động khởi động.
Hoạt động khởi động được tổ chức khi bắt đầu một bài học. 
Mục đích của hoạt động này là tạo tâm thế học tập cho HS, giúp các em ý thức được nhiệm vụ học tập, hứng thú với bài học mới.
GV sẽ tạo ra tình huống học tập dựa trên việc huy động kiến thức, kinh nghiệm của HS có liên quan đến vấn đề xuất hiện trong tài liệu hướng dẫn học; làm bộc lộ “cái” HS đã biết, bổ khuyết những gì cá nhân HS còn thiếu, giúp HS nhận ra cái chưa biết và muốn biết thông qua HĐ này. Từ đó giúp HS suy nghĩ và bộc lộ những quan niệm của mình về vấn đề sắp tìm hiểu, học tập. Vì vậy các câu hỏi, hay nhiệm vụ trong HĐ khởi động là những câu hỏi hay vấn đề mở, chưa cần HS phải có câu trả lời hoàn chỉnh.
Kết thúc HĐ này, GV không chốt về kiến thức mà chỉ giúp HS phát biểu được vấn đề để chuyển sang các HĐ tiếp theo nhằm tiếp cận, hình thành những kiến thức, kĩ năng mới, qua đó tiếp tục hoàn thiện câu trả lời hoặc giải quyết được vấn đề.
 Để tổ chức HĐ này, có thể sử dụng một số nội dung và hình thức sau:
- Câu hỏi, bài tập: Trong mỗi bài học, HĐ khởi động thường gồm một số câu hỏi hay bài tập. Các câu hỏi hay bài tập này thường là quan sát tranh/ảnh để trao đổi với nhau về một vấn đề nào đó có liên quan đến bài học. Cũng có một số bài tập không sử dụng tranh/ảnh mà trực tiếp ôn lại kiến thức đã học ở cấp/lớp dưới, nhưng thiết kế dưới dạng nhiệm vụ kết nối. Tuy nhiên, các câu hỏi không nên mang nhiều tính lý thuyết mà nên huy động những kinh nghiệm thực tế có liên quan đến nội dung bài học để tạo sự hứng thú và suy nghĩ tích cực cho người học.
Các hoạt động này trong một số trường hợp được thiết kế thành các cuộc thi, nhằm tạo ra không khí sôi nổi, hứng thú trước khi tiến hành học bài mới.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Tích vô hướng của hai vec tơ” (Hình học 10), GV có thể thiết kế HĐ khởi động là: Nêu tình huống về hai người ở hai bên bờ sông kéo chiếc thuyền. Hãy xác định phương, chiều của véc tơ tổng hợp lực kéo? Công do lực tổng hợp này sinh ra được tính như thế nào?
Ví dụ 2: Khi dạy tiết 1 bài “ Hoán vị- Chỉnh hợp – Tổ hợp” (Đại số và giải tích 11), GV có thể thiết kế HĐ khởi động là: 
 CH 1: Phân biệt 2 quy tắc đếm: quy tắc cộng và quy tắc nhân ?
 CH 2: Nêu vài cách xếp 3 bạn A, B, C ngồi vào một bàn học gồm 3 chỗ?
Ví dụ 3: Khi dạy bài “Lôgarit” (Giải tích 12), GV có thể thiết kế HĐ khởi động là: 
 Tìm biết: 
 a) 	b) 	c) 
Ví dụ 4: Khi dạy bài “Khái niệm về phép dời hình và hai hình bằng nhau” (Hình học 11), GV có thể thiết kế HĐ khởi động là: 
- Quan sát và nhận xét về kích thước và hình dạng của hai hình trên màn hình ?
- So sánh 2 hình? Căn cứ nào để chỉ ra 2 hình bằng nhau một cách rõ ràng, chính xác ?
Ví dụ 5: Khi dạy bài “Hai đường thẳng chéo nhau và hai đường thẳng song song” (Hình học 11), GV tổ chức cuộc thi nhỏ:
Quan sát lớp học, xem các cạnh tường, các cạnh cửa, các song cửa sổ là hình ảnh của đường thẳng. Hãy chỉ ra:
1. Các cặp đường thẳng không có điểm chung và cùng thuộc 1 mặt phẳng?
2. Các cặp đường thẳng không có điểm chung không thể cùng thuộc 1 mặt phẳng?
- Trò chơi: Một số trò chơi trong hoạt động khởi động giúp tạo ra hứng thú trước khi vào bài học mới. Các trò chơi này cũng có nội dung gắn với mỗi bài học.
2.3.2.2 Hoạt động hình thành kiến thức 
Mục đích của HĐ này giúp HS tự chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng mới và bổ sung vào hệ thống kiến thức, kỹ năng của mình thông qua hệ thống các bài tập/ nhiệm vụ như: nghiên cứu tài liệu, tiến hành thí nghiệm, thực hành, 
Ở HĐ này, GV chuyển giao nhiệm vụ cho HS, để HS hoạt động, thành thục thao tác, tránh cảm giác nhàm chán. Trong quá trình hình thành tri thức mới, HS phải thực hiện các nhiệm vụ học tập. Đó là GV giao – HS nhận và thực hiện các nhiệm vụ học tập; làm việc với tư liệu học tập; tạo ra sản phẩm, báo cáo kết quả; phản biện, bổ sung lẫn nhau; GV chốt kiến thức hoặc định hướng tiếp nhận. Trong bước này, mỗi nhiệm vụ học tập đều phải rõ ràng để học sinh biết mình phải làm gì, làm như thế nào, sử dụng tư liệu học tập nào, sản phẩm là gì và báo cáo dưới hình thức nào. Với mỗi nhiệm vụ học tập, GV phải lường trước tình huống có thể xảy ra, quan sát và hỗ trợ HS khi cần thiết.
 2.3.2. 3 Hoạt động luyện tập
Mục đích của hoạt động này là giúp HS củng cố, hoàn thiện kiến thức, kĩ năng vừa lĩnh hội được.
Ở HĐ này HS vận dụng những kiến thức, kĩ năng vừa học được để giải quyết nhiệm vụ học tập tương tự. Các nhiệm vụ học tập được sắp xếp theo cấp độ từ dễ đến khó. Thông qua đó, GV củng cố khắc sâu kiến thức, kĩ năng cho HS. Tùy đối tượng HS, GV có thể giao những nhiệm vụ đảm bảo vừa sức giúp HS thuần thục kĩ năng, hiểu sâu hơn về những tri thức vừa chiếm lĩnh. Mặt khác cũng cần thiết kế những bài tập nâng cao nhằm phát huy năng lực sáng tạo của HS và chuẩn bị cho các bước tiếp theo của bài học.
Ví dụ: Sau khi học xong một định lí, HS sẽ được làm bài tập áp dụng chính định lí ấy nhằm khắc sâu định lí. 
2.3.2.4 Hoạt động vận dụng
Mục đích của HĐ này là giúp HS sử dụng kiến thức, kĩ năng đã học để phát hiện và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống gần gũi ở gia đình và địa phương. HĐ này sẽ khuyến khích HS nghiên cứu, sáng tạo, tìm ra cái mới theo sự hiểu biết của mình; tìm phương pháp giải quyết vấn đề và đưa ra những cách giải quyết vấn đề khác nhau; góp phần hình thành năng lực học tập.
2.3.2.5 Hoạt động tìm tòi mở rộng
Mục đích là giúp HS không ngừng tiến tới, không bao giờ dừng lại với những gì đã học và hiểu rằng ngoài những kiến thức được học trong nhà trường còn rất nhiều điều có thể và cần phải tiếp tục học .
GV cần khuyến khích HS tiếp tục tìm tòi và mở rộng kiến thức ngoài sách vở, ngoài lớp học. HS tự đặt ra các tình huống có vấn đề nảy sinh từ bài học, từ thực tiễn cuộc sống, vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết bằng những cách khác nhau.
Ví dụ: Lịch sử hình thành kiến thức, thông tin về các nhà khoa học phát minh ra kiến thức, những ứng dụng của kiến thức trong đời sống và trong kĩ thuật.
H Đ vận dụng và HĐ tìm tòi mở rộng có thể không cần tổ chức trên lớp và không đòi hỏi tất cả HS phải tham gia. Tuy nhiên, GV cần quan tâm, động viên để có thể thu hút nhiều HS tham gia một cách tự nguyện; khuyến khích những HS có sản phẩm chia sẻ với các bạn trong lớp.
 Do HĐ tìm tòi mở rộng có tính chất tiếp nối và gắn kết với HĐ vận dụng, nên có thể kết hợp hai HĐ này trong tiến trình bài học. 
2.4 Tổ chức hoạt động học : “BÀI TẬP XÁC SUẤT CỦA BIẾN CỐ” bằng phương pháp tích hợp nhằm phát triển năng lực học sinh.
I. MỤC TIÊU DẠY HỌC
 Vận dụng kiến thức về xác suất của biến cố vào giải bài toán thực tế (bài toán xác suất trúng thưởng khi chơi xổ số, chơi lô đề; xác suất chọn đáp án đúng trong bài thi trắc nghiệm), tích hợp các kiến thức của môn học khác: Sinh học 10 (Bài 19: Giảm phân), Sinh học 9 (Chương I: Các thí nghiệm của Menden, Chương II: Nhiễm sắc thể, Chương III: Di truyền học người), GDCD 8 (Bài 13: Phòng chống tệ nạn xã hội), tiếp cận với ứng dụng của xác suất trong y học và pháp luật, để làm rõ các ứng dụng của toán học trong thực tiễn và trong dạy học các bộ môn khác.
1. Kiến thức
a. Môn toán: Nắm vững định nghĩa phép thử và biến cố, định nghĩa xác suất và các tính chất của xác suất.
b. Ứng dụng vào thực tiễn:
 - Biết tính xác suất trúng thưởng khi chơi xổ số, lô đề.
 - Biết tính xác suất đạt được một số điểm nhất định trong bài thi trắc nghiệm.
 - Tiếp cận ứng dụng xác suất trong pháp luật và y học.
c. Môn sinh học: Giải các bài toán di truyền học:
 - Xác suất sinh con trai, con gái.
 - Xác suất chọn được giống cây, giống con như ý muốn.
 - Xác suất bị bệnh hoặc không bị bệnh ở đời con.
d. Môn Ngữ văn: Các câu tục ngữ về hậu quả khi chơi lô đề.
f. Môn GDCD:
 - Công dân với các vấn đề về tệ nạn xã hội.
 - Quy định của pháp luật đối với người ghi lô đề và chơi lô đề, cờ bạc.
 - Ý thức và trách nhiệm của của công dân, học sinh với vấn nạn chơi lô đề.
2. Kĩ năng
 - Kỹ năng vận 

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_to_chuc_hoat_dong_hoc_phan_bai_tap_xac_suat_cua_bien_co.docx
  • docxHÌNH ẢNH DẠY HỌC THỰC TẾ.docx
  • docxPhu luc.docx
  • mp4video vui ve xac suat.mp4