SKKN Tạo hứng thú học tập của học sinh phần dao động và sóng điện từ qua ảnh hưởng của sóng điện từ đối với môi trường và con người

SKKN Tạo hứng thú học tập của học sinh phần dao động và sóng điện từ qua ảnh hưởng của sóng điện từ đối với môi trường và con người

Bảo vệ môi trường là một trong nhiều mối quan tâm mang tính toàn cầu. Ở nước ta, bảo vệ môi trường cũng đang là vấn đề được quan tâm sâu sắc. Nghị quyết số 41/NQ-TƯ ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Quyết định số 1363/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án : “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân” và Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02 tháng 12 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã tọa cơ sở pháp lí vững chắc cho những nỗ lực và quyết tâm bảo vệ môi trường theo định hướng phát triển một tương lai bền vững của đất nước.

 Khi nói đến ô nhiễm môi trường thì chúng ta thường nghĩ đến những vấn đề như ô nhiễm bầu không khí do khí thải CO2 ra môi trường từ các nhà máy công nghiệp, các động cơ; nguồn nước bị ô nhiễm, rác thải bừa bãi, Nhưng chúng ta lại không để ý đến một nhân tố cũng gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người hằng ngày, đó là “Sóng điện từ”. Xuất phát từ ý nghĩa và thực tế đó tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “ Tạo hứng thú học tập của học sinh phần dao động và sóng điện từ qua ảnh hưởng của sóng điện từ đối với môi trường và con người ”.

 

doc 26 trang thuychi01 6584
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tạo hứng thú học tập của học sinh phần dao động và sóng điện từ qua ảnh hưởng của sóng điện từ đối với môi trường và con người", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
 TRƯỜNG THPT 4 THỌ XUÂN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH PHẦN DAO ĐỘNG VÀ SÓNG ĐIỆN TỪ QUA ẢNH HƯỞNG CỦA SÓNG ĐIỆN TỪ ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG VÀ CON NGƯỜI
 Người thực hiện: Hà Sỹ Phương
 Chức vụ: Giáo viên
 SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Vật Lý
THANH HOÁ NĂM 2018
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
1.PHẦN MỞ ĐẦU
3
1.1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
3
1.2.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CÚU
4
1.3.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
4
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4
2. NỘI DUNG
5
2.1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
5
2.1.1.Sơ lược lịch sử nghiên cứu sóng điện từ
5
2.1.2. Sự tạo thành sóng điện từ
6
2.1.3. Phổ sóng điện từ
10
2.2 . THỰC TRẠNG
13
2.2.1. Những vấn đề chung
13
2.2.2. Ở trường THPT 
14
2.3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
14
2.3.1. Chuẩn bị của giáo viên
14
2.3.2. Chuẩn bị của học sinh
14
2.4. ẢNH HƯỞNG CỦA SÓNG ĐIỆN TỪ ĐẾN MÔI TRƯỜNG SỐNG VÀ CON NGƯỜI
14
2.4.1. Sóng điện từ làm ô nhiễm môi trường sống như thế nào
14
2.4.2. Tác hại của sóng điện từ đối với sức khỏe con người
15
2.4.3. Tác hại của điện thoại di động đối với sức khỏe con người
16
2.4.4. Tác hại của wifi đối với sức khỏe
18
2.5 . KẾT QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
22
3.PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
24
DANH MỤC
25
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
	Bảo vệ môi trường là một trong nhiều mối quan tâm mang tính toàn cầu. Ở nước ta, bảo vệ môi trường cũng đang là vấn đề được quan tâm sâu sắc. Nghị quyết số 41/NQ-TƯ ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Quyết định số 1363/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án : “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân” và Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02 tháng 12 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã tọa cơ sở pháp lí vững chắc cho những nỗ lực và quyết tâm bảo vệ môi trường theo định hướng phát triển một tương lai bền vững của đất nước.
	Khi nói đến ô nhiễm môi trường thì chúng ta thường nghĩ đến những vấn đề như ô nhiễm bầu không khí do khí thải CO2 ra môi trường từ các nhà máy công nghiệp, các động cơ; nguồn nước bị ô nhiễm, rác thải bừa bãi,Nhưng chúng ta lại không để ý đến một nhân tố cũng gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người hằng ngày, đó là “Sóng điện từ”. Xuất phát từ ý nghĩa và thực tế đó tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “ Tạo hứng thú học tập của học sinh phần dao động và sóng điện từ qua ảnh hưởng của sóng điện từ đối với môi trường và con người ”. 
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là giới thiệu cho các em một bức tranh toàn cảnh về sóng điện từ, nhằm trang bị cho các em những kiến thức hết sức bổ ích về lĩnh vực này. Mặt khác đề tài sẽ cung cấp cho các em những hiểu biết cơ bản về tác hại của sóng điện từ đối với sức khỏe của con người. Để từ đó các em có những hành động, việc làm thiết thực, có ý thức cao trong việc bảo vệ môi trường nói chung và không gian sinh sống trong từng gia đình nói riêng. Các em biết cách sử dụng một cách hợp lí các thiết bị thu và phát sóng điện từ từ các vật dụng sinh hoạt hằng ngày trong gia đình như: Tivi, lò vi sóng, máy vi tính , và đặc biệt là điện thoại di động – vật bất li thân đối với hầu hết tất cả mọi người trong cuộc sống hiện nay. 
1.3 . Đối tượng nghiên cứu:
Các kiến thức phần sóng điện từ.
Các bài viết về tác hại của sóng điện từ đối với môi trường và con người.
1.4 . Phương pháp nghiên cứu
- Hệ thống kiến thức cơ bản
- Nghiên cứu, tham khảo ở các tài liệu 
- Tìm hiểu, rút ra tác động của sóng điện từ đối với môi trường và con người.
2. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 
2.1.1 . Sơ lược lịch sử nghiên cứu sóng điện từ
	Vào thế kỉ XVIII, hiện tượng điện và hiện tượng từ được xem như hai loại hiện tượng khác hẳn nhau, giữa chúng không có mối liên quan gì. Nhờ những phát kiến của Am-pe (Ampere), của Fa-ra-đây (Faraday) và các nhà khoa học khác nữa, chúng ta đã biết rằng hai loại hiện tượng đó có mối liên quan mật thiết với nhau, chẳng hạn như: dòng điện sinh ra từ trường, từ trường biến đổi sinh ra điện trường xoáy. Trên cơ sở đó hiện tượng điện và từ được khảo sát chung trong môn Điện từ học.
	Một trong những biểu hiện ý nghĩa nhất của Điện từ học, đó là điện trường và từ trường biến đổi kết hợp với nhau tạo thành một loại sóng lan truyền, gọi là sóng điện từ. Người ta đã tiên đoán sự tồn tại của sóng điện từ, và nghiên cứu bằng lí thuyết những tính chất của nó hàng chục năm trước khi tạo được sóng trong phòng thí nghiệm. Năm 1864 nhà vật lí học xứ E-cốt (Anh), Mắc-xoen (James Clerk Maxwell, 1831 – 1879) đề ra một giả thuyết rằng: Nếu một từ trường thay đổi để tạo nên một điện trường, thì tương tự như vậy, một điện trường thay đổi sẽ phải tạo nên một từ trường. Dường như là có sự “đối xứng” giữa điện trường và từ trường.
	Dùng những công cụ toán học trình bày nội dung của giả thuyết trên, cùng với các định luật đã biết về điện từ học, Mắc-xoen đã viết bốn phương trình bao quát tất cả điện từ học, người ta gọi là các phương trình Mắc-xoen về trường điện từ. Từ những phương trình đó có thể suy ra rằng, điện trường và từ trường biến đổi, cùng với nhau tạo thành sóng điện từ lan truyền với tốc độ ánh sáng. Tiếp theo, ông đề xuất ánh sáng khả kiến, trước đó được coi là một hiện tượng hoàn toàn tách biệt với điện và với từ, chính là một loại sóng điện từ. Lí thuyết của Mắc-xoen cũng cho thấy rằng, không phải chỉ có ánh sáng khả kiến là sóng điện từ, mà có thể tạo ra sóng điện từ bằng các mạch dao động điện.
	Lần đầu tiên sóng điện từ được tạo ra và quan sát trong phòng thí nghiệm vào năm 1887 do nhà vật lí học Đức Héc (Heinrich Hertz) thực hiện. Ông dã dùng một anten, tương tự như một LC, tạo ra dòng điện xoay chiều tần số cao trong đó, và thấy rằng năng lượng có thể chuyển từ mạch này sang một mạch LC đặt cách đó nhiều mét. Hơn nữa, ông còn chứng tỏ được rằng, sự truyền năng lượng có những đặc điểm giống như quá trình truyền sóng, nghĩa là có sự phản xạ, khúc xạ, giao thoa, nhiễu xạ và phân cực. Như vậy có thể cho rằng sóng được tạo ra từ mạch thứ nhất (anten) và truyền đến mạch thứ hai qua khoảng không gian của phòng thí nghiệm. Điều quan trọng hơn là Héc còn chứng tỏ được rằng, tốc độ truyến sóng gần đúng bằng tốc độ truyền ánh sáng, đúng như dự đoán của Mắc-xoen. Chỉ vài năm sau khi thí nghiện của Héc được công bố, người ta thử lại và phát triển thêm nhiều, đến mức thí nghiệm được áp dụng trong thực tế và dẫn đến một phát minh rất quan trọng của Mắc-cô-ni (Marconi, 1874-1937), đó là phát minh ra vô tuyến điện năm 1896. Như vậy là khi Mắc-xoen chết thì sự tồn tại của sóng điện từ mới chỉ là một đề xuất lí thuyết, hơn hai mươi năm sau, sóng điện từ đã bắt đầu trở thành một phương tiện truyền thông mới mang lại những biến đổi lớn trong đời sống. 
2.1.2. Sự tạo thành sóng điện từ
	Khi khảo sát sóng cơ ta thấy rằng, nếu một hạt của môi trường dao động, thì do liên kết, hạt khác của môi trường ở vị trí lân cận sẽ chịu lực tác dụng và dao động theo. Do cơ chế đó mà dao động được lan truyền trong môi trường và tạo thành sóng. Ta xét đối với sóng điện từ, trước hết ta thừa nhận rằng, trong chân không và trong môi trường điện môi tương tác từ không truyền đi một cách tức thời, mà có một tốc độ lan truyền hữu hạn. Thí dụ, trong chân không vào thời điểm t=0 tại điểm A xuất hiện một điện tích q, theo định luật Cu-lông thì tại điểm B cách A một đoạn sẽ xuất hiện điện trường có cường độ E tỉ lệ với . Nhưng điện trường đó không xuất hiện ngay tức thì vào thời điểm t = 0, mà phải sau khoảng thời gian , c là tốc độ truyền tương tác điện từ sau này ta sẽ thấy c chính là tốc độ truyền ánh sáng.
	Bây giờ, xét một máy phát điện xoay chiều có hai đầu ra, mà mỗi đầu được nối thêm một thanh dẫn điện dài, hai thanh cùng nằm trên một đường thẳng thẳng đứng và nối dài về hai phía gọi là anten. Hình 1 vẽ hai thanh nối dài, máy phát điện được biểu diễn bằng một vòng tròn ở giữa, máy tạo nên dao động điện, chu kì T trong an ten. Chúng ta khảo sát sự lan truyền của sóng điện từ từ anten theo phương của trục x nằm ngang vuông góc với anten.
P
x
a) Thời điểm t=0
P
x
b) Thời điểm 0<t1< 
Q
P
x
c) Thời điểm t2 = 
P
x
d) Sau thời điểm t2 = 
P
x
e) Sau thời điểm t3 = 
P
x
f) Thời điểm t4 = 
Hình 1: Sự hình thành sóng điện từ
Giả thiết rằng vào thời điểm t = 0, thanh trên tích điện dương, thanh dưới tích diện âm có độ lớn cực đại (hình 1a). Điện trường tại điểm P trên trục x, ngay sát anten hướng xuống dưới.
	Một thời gian ngắn sau đó vào thời điểm t1 sao cho 0<t1< tương tác điện lan truyền tới điểm Q (PQ = ct1), điện trường tại Q vào này bằng điện trường E tại P vào thời điểm t1 thì nhỏ hơn, vì rằng vào thời điểm này thì điện tích dương ở thanh trên giảm t1 thì nhỏ hơn, vì rằng vào thời điểm này thì điện tích dương ở thanh trên giảm đi, độ lớn của điện tích âm ở thanh dưới cũng giảm theo (hình 1b).
	Đến thời điểm thì dao động động điện đã thực hiện một phần tư chu kì, anten không còn tích điện nữa, điện trường tại P vào thời điểm đó bằng không. Điện trường E tạo ra tại P vào thời điểm t = 0, đến thời điểm này đã lan truyền đến điểm R sao cho (hình 1c).
	Tiếp sau thời điểm , điện tích trên từng thanh của anten đổi dấu, điện trường tại điểm P đổi chiều và hướng lên trên (hình 1d). Lần lượt tại các thời điểm chúng ta có các hình 1e và hình 1f. Sau thời điểm thì điện tích trên từng thanh lại đổi dấu ngược lại, và điện trường tại P lại hướng lên trên.
Hình 1g. Biễu diễn dòng điện trong anten
I
I
Nếu theo dõi hết một chu kì T thì ta sẽ thấy rằng, điện trường tạo nên bởi một anten nối với một máy phát xoay chiều, truyền đi ra xa anten giống như sóng trên một sợi dây truyền đi xa từ một điểm của dây dao động điều hòa theo phương ngang.
	Trên đây chúng ta mới khảo sát sự lan truyền của điện trường. Nếu xét đến dòng điện trong anten và tác dụng tạo từ trường của nó, thì sẽ thấy rằng có một từ trường được tạo thành và lan truyền theo phương x dưới dạng sóng giống như điện trường đã nói ở trên. Hình 1g biểu diễn trường hợp dòng điện trong anten đi lên, cùng lúc ấy thanh trên tích điện dương. 
	Như đã nói ở trên, tại điểm P, điện trường thẳng đứng hướng xuống dưới, còn từ trường tạo thành bởi dòng điện, theo quy tắc vặn cái đinh ốc, có vectơ cảm ứng từ nằm ngang, tức là vuông góc với mặt phẳng của hình vẽ, và hướng vào trong. Ta thấy rằng trong trường hợp này hai vectơ điện trương và cảm ứng từ vuông góc với nhau. Xét trong một chu kì T, bằng phương pháp tương tự như khi khảo sát điện trường, ta cũng thấy rằng từ trường truyền đi ra xa anten cũng có dạng sóng, với tốc độ truyền tương tác c. Chú ý rằng vào thời điểm mà vectơ bằng 0 thì vectơ cảm ứng từ cũng bằng 0. Hai vectơ này luôn luôn vuông góc với nhau và với hướng truyền sóng. Điện trường và từ trường cùng biến đổi điều hòa và lan truyền như thế này là sóng điện từ. 
	Những khảo sát chặt chẽ hơn, bằng cách lập luận toán học, xuất phát từ 4 phương trình Mắc-xoen về điện từ, có thể suy ra rằng: 
Vectơ cường độ điện trường và vectơ cảm ứng từ luôn luôn vuông góc với nhau, chúng lan truyền với cùng tốc độ c theo hướng Ox. Tốc độ c tính được theo các hằng số điện và từ: với là số điện và là hằng số từ.
Vectơ , vectơ và Ox hợp với nhau thành một tam diện thuận, nghĩa là: Nếu một người đứng thẳng theo hướng và tay phải giơ ngang theo hướng thì mắt nhìn thẳng về phía trước là hướng x (hình 2).
y
x
z
O
Hai vectơ và biến đổi điều hòa theo thời gian với cùng tần số góc và luôn cùng pha, nghĩa là ở vị trí mà E cực đại thì B cũng cực đại. Có thể viết biểu thức cho sự phụ thuộc tọa độ và thời gian của hai vectơ này trong sóng điện từ phẳng như sau:
	 (1)
	 (2)
2.1.3. Phổ sóng điện từ
	Các sóng điện từ bao phủ một miền tần số f rất rộng, có thể từ 1 đến 1024Hz. Miền ấy cũng tương ứng với miền bước sóng (trong chân không) , sao cho ta luôn có hệ thức . Người ta phân biệt nhiều loại sóng điện từ theo tính chất, nguồn phát và công dụng. Mỗi loại có tần số (hoặc bước sóng trong chân không) trải ra một khoảng nào đó. Tuy nhiên, ranh giới giữa các khoảng ấy cũng không thật rõ ràng. 
2.1.3.1. Sóng vô tuyến điện
	Sóng vô tuyến điện là sóng điện từ có tần số thấp, thường được coi là từ 106 Hz đến 109 Hz (bước sóng từ 300m đến đềximét). Gọi tên như vậy vì loại sóng này được dùng trong liên lạc vô tuyến điện và vô tuyến truyền hình. Sóng này phát ra từ các anten lim loại. Sóng vô tuyến điện còn được phát ra bằng nhiều cách khác nữa, thí dụ như phân tử và các eelectron được tăng tốc trong vũ trụ phát ra các sóng vô tuyến điện. Các nhà thiên văn học dùng kính thiên văn vô tuyến (bắt đầu từ những năm 50 của thế kỉ trước) thu các sóng ấy, và nhờ khảo sát chúng mà ta biết được nhiều thông tin mới về vũ trụ.
2.1.3.2. Vi sóng
 	Bức xạ điện từ có tần số từ 109 đến khoảng 1012 Hz được gọi là vi sóng. Loại sóng này được dùng để truyền điện thoại đường dài và để làm chín thức ăn. Khi bức xạ vi sóng, với tần số nằm trong một khoảng hẹp thích hợp, truyền qua nước (hoặc chất có chứa nước) thì các phân tử nước hấp thụ mạnh năng lượng của bức xạ và nóng lên khá nhanh. Vi sóng có bước sóng từ 1mm đến 30cm là những sóng điện từ có tần số cao nhất mà mạch điện tử có thể tạo ra.
2.1.3.3. Bức xạ hồng ngoại
	Sóng điện từ có tần số khoảng từ 1012 đến 4,3.1014 Hz thì gọi là bức xạ hồng ngoại. Chuyển động quay và dao động của phân tử phát ra bức xạ hồng ngoại. Ngược lại, khi các phân tử hấp thụ năng lượng của tia hồng ngoại thì chuyển động quay và dao động của chúng mạnh lên, nhiệt độ của vật tăng. Ở mọi nhiệt độ các vật đều phát ra bức xạ điện từ. Ở nhiệt độ cao, thì sóng hồng ngoại chỉ là một phần nhỏ của bức xạ phát ra. Nhưng ở nhiệt độ thấp, thí dụ nhiệt độ cơ thể người 370C, thì bức xạ phát ra gồm chủ yếu là bức xạ hồng ngoại. Mắt người không cảm nhận được các tia hồng ngoại, nhưng một số loài vật, thí dụ như một số loài rắn có thể cảm nhận được tia hồng ngoại, vì thế chúng có thể nhận biết con mồi trong đêm tối dày đặc, do cơ thể con mồi nóng hơn môi trường xung quanh nên bức xạ hồng ngoại mạnh hơn. Một số phim ảnh nhạy cảm với tia hồng ngoại, dùng phim này có thể chụp ảnh hồng ngoại trong đêm tối. Dùng ống nhòm hồng ngoại có thể thấy gián tiếp (qua một màn ảnh) những động vật có thân nhiệt trong đêm. Dùng máy thu hình hồng ngoại, đặt ở lối đi có thể phát hiện được người bị sốt, có thân nhiệt lớn hơn 380C, do mặt người đó bức xạ hồng ngoại mạnh hơn mặt người bình thường. 
2.1.3.4. Ánh sáng khả kiến (nhìn thấy được)
 	Mắt người cảm nhận được sóng điện từ trong khoảng từ 4,3.1014 đến 7,5.1014 Hz (tương ứng với bước sóng từ 400 đến 700 nm). Đây chỉ là một khoảng rất hẹp trong dải tần số của sóng điện từ. Sóng trong khoảng tần số này được phát ra từ các êlectron khi chuyển mức năng lượng trong nguyên tử. Bức xạ với bước sóng khác nhau tạo nên cảm giác về màu khác nhau. Sau đây là bảng cho các màu tương ứng với bước sóng của ánh sáng khả kiến:
Bước sóng 
Màu
 Tím
 Chàm
 Lam
 Xanh
 Vàng
 Da cam
 Đỏ
- Những giới hạn của miền khả kiến và giới hạn bước sóng giữa các màu không thể xác định chính xác hoàn toàn, vì chúng tương ứng với cảm giác, mà cảm giác thì có phần nào đó phụ thuộc vào từng người. 
- Ánh sáng tự nhiên (khả kiến) chiếu từ Mặt Trời tới Trái Đất là ánh sáng trắng, bao gồm các bức xạ có bước sóng liên tục như ở bảng trên, với sự phân bố cường độ xác định. Trộn lẫn các bức xạ (màu) trên với sự phân bố cường độ giống như vậy sẽ cho ánh sáng trắng.
- Nếu phân biệt các màu của những bức xạ có bước sóng xác định nói trên (còn gọi là các màu cầu vồng) với ba màu gọi là màu sơ cấp (đỏ, lam, xanh) thường được dùng trong kĩ thuật truyền hình. Các điểm sáng rất nhỏ, mỗi điểm có một trong ba màu, xen kẽ nhau trên màn hình cho ta cảm giác gần giống với các màu tự nhiên nếu tỉ lệ độ sáng thực hiện được giống như trong tự nhiên. Có thể có nhiều cách chọn ba màu sơ cấp khác nhau chút ít.
2.1.3.5. Bức xạ tử ngoại
	Bức xạ tử ngoại là sóng điện từ có tần số lớn hơn ánh sáng tím, vào khoảng từ 7,5.1014 đến 1017 Hz. Bức xạ tử ngoại tuy không nhìn thấy được nhưng có tác dụng ion hóa không khí, gây phản ứng hóa học và có tác dụng sinh lí làm hại da, diệt vi khuẩn nếu được chiếu với cường độ mạnh hoặc thời gian dài. Phần lớn tia tử ngoại truyền tới Trái Đất bị hấp thụ bởi ôzôn (O3) và những phân tử khác trong lớp khí quyển ở tầng cao, nhờ thế mà các sinh vật trên Trái Đất tránh được tác dụng có hại của tia này. Một vài loại ong và bướm có thể nhìn thấy ánh sáng tử ngoại.
2.1.3.6. Tia X (Tia Rơn-ghen)
	Sóng điện từ có tần số lớn hơn tần số của tia tử ngoại, vào khoảng 1017 đến 1020 Hz, gọi là tia X hay tia Rơn-ghen. Tia X được tạo ra bằng cách phóng một chùm êlectron nhanh vào một bia kim loại. Tia X có tính chất đâm xuyên mạnh qua các chất, tính đâm xuyên giảm khi khối lượng riêng của chất đâm xuyên tăng, tính chất này khiến cho tia X được dùng để khảo sát cấu trúc bên trong cơ thể (chiếu điện), bên trong các vật thể. Tia X chiếu vào cơ thể sống có thể gây hại cho các mô nếu liều lượng chiếu vượt quá một giới hạn nhất định.
2.1.3.7. Tia gamma 
	Sóng điện từ có tần số lớn hơn 1020 Hz gọi là các tia gamma (). Những tia này còn mạnh hơn tia X về tính chất đâm xuyên và phá hũy các tế bào sống. Tia gamma được phát ra từ các hạt nhân nguyên tử khi trong đó có sự biến đổi qua lại giữa proton và notron, hoặc khi một hạt cơ bản va chạm với phản hạt của nó. Tia gamma được dùng để phá hoại các tế bào ung thư, diệt các vi sinh vật trong thức ăn làm cho thức ăn được bảo quản tốt hơn. 
2.2. THỰC TRẠNG 
2.2.1. Những vấn đề chung
	Có thể khẳng định rằng, chúng ta đang sống trong một “biển” bức xạ điện từ. Bên cạnh những lợi ích hết sức to lớn mà sóng điện từ mang lại, thì nó cũng được mệnh danh là một “sát thủ tàng hình”. Khoa học đã chứng minh sóng điện từ đối với những người mẫn cảm là thủ phạm gây chứng mất ngủ hoặc ngủ mê mệt, chuột rút, ngứa ngáy, đổ mồ hôi, tim đập nhanh, đau lưng...Từ trường của chiếc máy vi tính - tuỳ theo thời gian bạn tiếp xúc – có thể gây mụn trứng cá, eczema, nhức mắt,... Ánh sáng nhân tạo trong nhà phát ra từ chiếc đèn ống hoặc đèn halogen cũng góp phần “ăn mòn” sức khoẻ con người. 
	Tuy nhiên, sóng điện từ làm ô nhiễm môi trường sống, gây nguy hại trực tiếp đến sức khỏe con người hằng ngày thì chúng ta lại không cảm nhận được. Điều này được thể hiện qua việc sinh hoạt hằng ngày trong cuộc sống. Ví dụ như chúng ta sử dụng điện thoại di động một cách tùy tiện, không có khoa. Chúng ta thường ngồi máy vi tính quá lâu, thường xuyên bỏ điện thoại di động trong túi quần, mà không hề hay biết nó cũng là một trong các nhân tố dẫn đến tình trạng “vô sinh” – một căn bệnh phổ biến hiện nay ở giới trẻ.
2.2.2. Ở Trường THPT
 Với bộ môn Vật Lý thì phần lớn các giáo viên giảng dạy chưa lồng ghép được những kiến thức về giáo dục bảo vệ môi trường thông qua các kiến thức của bài học.
Qua các bài giảng trên lớp, các em chỉ nắm được những kiến thức lý thuyết đơn thuần, những kiến thức trong SGK chỉ mới giúp các em nắm được khái niệm cơ bản, tính chất cơ bản,ứng dụng cơ bản,của sóng điện từ, mà chưa có sự vận dụng những kiến thức ấy vào trong thực tế cuộc sống. Ví dụ như việc sử dụng điện thoại di động – một thiết bị phát và thu sóng điện từ của các em học sinh. Ở các trường THPT đều cấm các em học sinh không được mang và sử dụng điện thoại di động, nhưng thực tế thì phần lớn các em học sinh đều mang và sử dụng điện thoại di động. Các em sử dụng điện thoại di động một cách tràn lan, bừa bãi trong việc nghe, gọi, nhắn tin, chơi game, mà không ý thức được những tác hại của nó đối với sức khỏe của bản thân mình và những người xung quanh. 
2.3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN	
2.3.1. Chuẩn bị của giáo viên
- Hệ thống kiến thức kiến thức về sóng điện từ . 
- Hệ thống các bài viết về ảnh hưởng của sóng điện từ đối với môi trường và con người.
2.3.2. Chuẩn bị của học sinh
- Tìm hiểu những kiến thức về sóng điện từ qua sách giáo khoa, báo chí, các thông tin trên mạng internet.
- H

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_tao_hung_thu_hoc_tap_cua_hoc_sinh_phan_dao_dong_va_song.doc