SKKN Sử dụng phương pháp đóng vai vào dạy Bài 12. Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10 nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh ở trường THPT Quan Hóa
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã ghi:“Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”[4].
Trong luật Giáo dục Việt Nam, điều 28.2 đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”[1]. Vì vậy, để nâng cao chất lượng dạy học thì giáo dục phải đổi mới về nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học.
Công nghệ là một môn khoa học ứng dụng, nghiên cứu việc vận dụng những quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Nội dung trong sách giáo khoa (SGK) Công nghệ 10 là những kiến thức cơ bản về Nông, lâm, ngư nghiệp và tạo lập doanh nghiệp. Do đó, nếu người dạy không đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng cho học sinh (HS) tìm tòi khám phá, từ đó tìm ra tri thức và tiếp nhận tri thức một cách chủ động mà cứ giảng dạy theo phương pháp truyền thống sẽ gây nhàm chán cho học sinh [3].
Xu hướng đổi mới PPDH ở nước ta hiện nay là chuyển từ việc dạy học lấy giáo viên (GV) làm trung tâm chuyển sang việc dạy học lấy HS làm trung tâm. Trước đây, việc dạy học chủ yếu bằng hình thức truyền đạt tri thức từ người thầy giáo nhưng PPDH hiện nay là phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. Giáo viên chính là những người hướng dẫn, tổ chức, điều khiển cho HS để các em tự lĩnh hội tri thức.
1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã ghi:“Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”[4]. Trong luật Giáo dục Việt Nam, điều 28.2 đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”[1]. Vì vậy, để nâng cao chất lượng dạy học thì giáo dục phải đổi mới về nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học. Công nghệ là một môn khoa học ứng dụng, nghiên cứu việc vận dụng những quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Nội dung trong sách giáo khoa (SGK) Công nghệ 10 là những kiến thức cơ bản về Nông, lâm, ngư nghiệp và tạo lập doanh nghiệp. Do đó, nếu người dạy không đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng cho học sinh (HS) tìm tòi khám phá, từ đó tìm ra tri thức và tiếp nhận tri thức một cách chủ động mà cứ giảng dạy theo phương pháp truyền thống sẽ gây nhàm chán cho học sinh [3]. Xu hướng đổi mới PPDH ở nước ta hiện nay là chuyển từ việc dạy học lấy giáo viên (GV) làm trung tâm chuyển sang việc dạy học lấy HS làm trung tâm. Trước đây, việc dạy học chủ yếu bằng hình thức truyền đạt tri thức từ người thầy giáo nhưng PPDH hiện nay là phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. Giáo viên chính là những người hướng dẫn, tổ chức, điều khiển cho HS để các em tự lĩnh hội tri thức. Ở nước ta, việc đổi mới PPDH đã diễn ra, nhất là trong thời gian gần đây. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng dạy học theo lối thầy đọc, trò chép, người giáo viên ít chú trọng đến vấn đề phát huy tính tự học của HS, ít khi đặt ra vấn đề mang tính chất tìm tòi cho HS phát triển năng lực tư duy, tự học và tư nghiên cứu. Thực trạng dạy học Công nghệ 10 ở trung học phổ thông (THPT) phần lớn vẫn còn trong tình trạng chung như trên. Do đó, việc đổi mới PPDH Công nghệ 10 nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo, chủ động của HS là cấp bách và cần thiết. Xác định được nhiệm vụ trên, đội ngũ giáo viên ở các cấp học đã không ngừng đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, trong đó phương pháp đóng vai được nhiều giáo viên lựa chọn. Mặc dù, Quan Hóa là một huyện miền núi, đa số học sinh đều là dân tộc thiểu số, sự hiểu biết và tiếp cận với phương pháp học mới còn nhiều hạn chế nhưng bằng niềm đam mê với nghề nghiệp, sự nhiệt huyết trong chuyên môn và xuất phát từ những lý do trên mà tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Sử dụng phương pháp đóng vai vào dạy Bài 12. Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10 nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh ở trường THPT Quan Hóa” góp phần thực hiện yêu cầu đổi mới nội dung và PPDH theo hướng phát huy tính tích cực học tập của HS ở phổ thông. 1.2. Mục đích nghiên cứu Thiết kế, xây dựng và sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học phần Nông, lâm, ngư nghiệp - Công nghệ 10, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, nâng cao hiệu quả dạy học môn Công nghệ 10. 1.3. Đối tượng nghiên cứu - Biện pháp đế phát triển kĩ năng “đóng vai”. - Học sinh khối 10 trường trung học phổ thông Quan Hóa. - Nội dung bài 12 – trang 38, SGK Công nghệ 10. 1.4. Phương pháp nghiên cứu 1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết - Nghiên cứu tài liệu và các công trình nghiên cứu đổi mới PPDH theo hướng tích cực hóa việc học của học sinh. - Nghiên cứu về cấu trúc và nội dung chương trình Công nghệ 10 (phần Nông, Lâm, Ngư nghiệp). - Nghiên cứu cơ sở lý luận về các phương pháp, biện pháp thiết kế và sử dụng phương pháp đóng vai trong nội dung bài 12. “Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10” theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh. 1.4.2. Phương pháp chuyên gia Gặp gỡ, trao đổi, tiếp thu ý kiến của các đồng nghiệp để tham khảo ý kiến làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài. 1.4.3. Phương pháp thực tập sư phạm Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT Quan Hóa, tiến hành theo quy trình của đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục để đánh giá hiệu quả của đề tài nghiên cứu. 1.4.4. Phương pháp thống kê toán học Sử dụng phương pháp này để thống kê, xử lý, đánh giá kết quả thu được. 2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Một số khái niệm cơ bản 2.1.1.1. Phương pháp dạy học tích cực PPDH tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học. Tuy nhiên, để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nổ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.[2] Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học, nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp HS đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng giáo viên chưa đáp ứng học, hoặc có trường hợp GV hăng hái áp dụng PPDH tích cực nhưng không thành công vì HS chưa thích ứng, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì vậy, GV phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho HS phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới PPDH phải có sự hợp tác của cả thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. [2] 2.1.1.2. Phương pháp đóng vai Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định.[2] Thực tế giảng dạy môn Công nghệ 10 ở trường THPT cho thấy phần lớn do các giáo viên ở các bộ môn khác đảm nhận nên sự “đầu tư” giảng dạy chưa cao. Việc sử dụng các PPDH truyền thống càng làm cho HS có cách nhìn tiêu cực về môn học này, và nhiều HS ngày càng “ngán” môn Công nghệ. Để tránh hiện tượng nhàm chán cho HS việc mạnh dạn sử dụng phương pháp đóng vai vào dạy học Công nghệ 10 là rất cần thiết, đặc biệt trong những năm gần đây với chương trình thay sách, đóng vai là phương pháp được áp dụng khá phổ biến [2]. * Ưu điểm của phương pháp đóng vai Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau: - HS được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn. - Gây hứng thú và chú ý cho học sinh. - Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh - Khích lệ sự thay đổi, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi đạo đức và chính trị xã hội. - Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn. - Phát huy được những kinh nghiệm thực tế và tư duy sáng tạo của từng cá nhân cũng như sự phối hợp chặt chẽ của cá nhân với tập thể nhóm. - Lớp học sinh động, người học tiếp thu kiến thức thông qua những hoạt động tích cực trong "vai diễn" của họ [8]. * Hạn chế của phương pháp đóng vai - Mất nhiều thời gian. - Phải suy nghĩ "kịch bản", "diễn viên"... - Đối tượng học sinh có tỷ lệ khá giỏi phải nhiều. - Nếu số lượng học sinh nhiều hiệu quả không cao [8]. * Phương pháp tổ chức phương pháp đóng vai Cách thức tiến hành phương pháp đóng vai thường theo các bước sau: - Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm một cách tương đối đơn giản, không quá phức tạp và quy định rõ thời gian chuẩn mực, thời gian đóng vai. - Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công sắm vai - Thứ tự các nhóm đóng vai - Các HS khác theo dõi phóng vấn, nhận xét, đánh giá, bổ sung (nếu cần). Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp? Chưa phù hợp ở điểm nào? - Cuối cùng GV kết luận chốt lại về cách ứng xử cần thiết trong tình huống nên sự cố gắng của HS và rút kinh nghiệm. Cách thức tiến hành có thể tóm tắt bằng sơ đồ sau: Các nhóm đóng vai Các nhóm thảo luận, xây dựng kịch bản GV chia nhóm, giao nhiệm vụ Các nhóm khác theo dõi, nhận xét Giáo viên kết luận, nhận xét Sơ đồ 1. Các bước tiến hành phương pháp đóng vai [8] * Một số lưu ý khi thực hiện phương pháp đóng vai - Chọn vấn đề đóng vai có mục tiêu dạy học rõ ràng. - Chọn người đóng vai có kiến thức hay kinh nghiệm tương tự vai diễn hay chọn tình huống trong các nhóm đóng vai phải sát thực tế và đáp ứng mục tiêu dạy học. - Giáo viên giới thiệu vai diễn rõ mục đích, thống nhất tình huống. - Tình huống nên để mở, giáo viên không cho trước “kịch bản”, lời thoại [2]. - Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai [2]. - Người đóng vai phải hiểu rõ nhiệm vụ của mình trong bài tập đóng vai để không lạc đề [2]. - Nên có các biện pháp khích lệ những học sinh nhút nhát tham gia [2]. - Nên hóa trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trò chơi đóng vai [2]. - Rút ra được kết luận sư phạm: ý đồ đưa ra tình huống để đóng vai, mục đích của kịch bản, kết quả sư phạm thu được v.v...[2] 2.2. Cơ sở thực tiễn 2.2.1. Thực trạng dạy học môn Công nghệ nông nghiệp ở trường THPT 2.2.1.1. Thực trạng dạy học của giáo viên Nhìn chung, giáo viên cải tiến đổi mới phương pháp như sử dụng: phương pháp vấn đáp tìm tòi, trực quan tìm tòi, thảo luận nhóm Tuy nhiên, việc sử dụng các phương pháp trên không thường xuyên, đa phần giáo án chủ yếu là nội dung bài học chứ chưa chú trọng đến phương pháp, rất ít câu hỏi tư duy. Chỉ sử dụng hệ thống sơ đồ trong SGK để minh học cho bài học, mà không có thêm các sơ đồ tự thiết kế từ nội dung SGK hay liên hệ thực tiễn. Chưa chú ý sử dụng các phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. 2.2.1.2. Việc học của học sinh Qua thực tế giảng dạy cho thấy, chất lượng giờ dạy môn Công nghệ 10 chiếm tỷ lệ trung bình rất cao. Hoạt động các em chủ yếu là nghe giảng, ghi chép chứ chưa có ý thức phát biểu xây dựng bài. Một số em còn làm việc riêng trong giờ học, có khi lớp 48-52 học sinh nhưng trong suốt giờ học chỉ tập trung 4-5 em phát biểu xây dựng bài. Các em hầu như không có hứng thú vào việc học tập bộ môn Công nghệ 10. Từ thực tế trên dẫn đến kết quả học tập bộ môn chưa cao. Số học sinh giỏi ít, khá và trung bình nhiều, yếu vẫn còn. Qua thực tế giảng dạy nếu sử dụng các PPDH phát huy tính tích cực như: thảo luận nhóm, phiếu học tập, sử dụng băng hình cùng với những câu hỏi tìm tòi, kích thích tư duy, gây tranh luận thì không khí học tập sôi nổi hẳn, các em tích cực phát biểu xây dựng bài. Ngược lại, ở một số lớp giáo viên sử dụng phương pháp thuyết trình, đàm thoại tái hiện, thông báo lớp học trở nên trầm, ít học sinh phát biểu xây dựng bài. 2.2.2. Những nguyên nhân của thực trạng dạy và học môn Công nghệ 10 ở các trường THPT hiện nay nói chung và ở trường THPT Quan Hóa nói riêng - Giáo viên ngại áp dụng các phương pháp mới vào quá trình dạy học. Bởi để dạy học theo các phương pháp mới phát huy được tính tích cực của HS đòi hỏi phải đầu tư thời gian, trí tuệ vào việc soạn giáo án. Đồng thời giáo viên phải có năng lực tổ chức, điều khiển quá trình dạy học. Đây là khó khăn đối với giáo viên hiện nay vì một số trường chưa có giáo viên chuyên ngành kỹ thuật nông nghiệp. Ở một số trường THPT chưa có đủ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động học tập của bộ môn như: chưa có phòng thực hành bộ môn, chưa có các đồ dùng dạy học cần thiết - Đặc điểm của HS khu vực miền núi: Qua quá trình tìm hiểu và thực tế dạy học ở trường THPT Quan Hóa – Thanh Hóa, tôi có thể tóm tắt về một số đặc điểm của HS THPT miền núi như sau: + Về điều kiện kinh tế xã hội: Đa phần HS là con em dân tộc thiểu số, sống ở miền núi cao,địa hình hiểm trở, sống xa nhau, xa trường nên đi lại khó khăn, gây cản trở không ít đến việc đến trường học tập của các em. + Về ngôn ngữ tiếng Việt: Do đa phần HS là người dân tộc thiểu số, hoàn cảnh sống khó khăn, ít được tiếp xúc với phương tiện dạy học hiện đại nên ngôn ngữ tiếng Việt còn nghèo, nhiều khi trong lớp các em còn giao tiếp bằng ngôn ngữ riêng của dân tộc mình, kĩ năng đọc, viết, diễn đạt câu, phát âm các thuật ngữ khoa học nhiều khi chưa chính xác. + Về khả năng tư duy: Thường tư duy chậm, khi gặp tình huống phức tạp thường bối rối không nhanh chóng tìm ra phương án, khả năng tư duy trừu tượng, tư duy logic biện chứng chưa cao. Các em thường xem xét sự vật hiện tượng trong mối quan hệ riêng lẻ, đơn giản. Các em quen tư duy cụ thể, bắt chước, dập khuôn nên gặp bài khó, phức tạp không tích cực suy nghĩ mà chờ sự hướng dẫn của giáo viên. Khả năng vận dụng, liên hệ thực tế còn hạn chế, khả năng phân tích, tổng hợp, so sánh còn yếu. + Về đặc điểm tâm hồn: Các em sống hồn nhiên, vô tư, có tình cảm yêu ghét rõ ràng. Lòng tự trọng cao, bản tính thật thà và có trách nhiệm trong công việc. Nhưng còn rụt rè, ít nói và lòng tự ti dân tộc cao. - Bên cạnh đó, một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng dạy và học Công nghệ 10 hiện nay do môn này không được học sinh coi là môn học chính, vì không thi tốt nghiệp, không thi đại học. Từ đó đã hình thành nên suy nghĩ buông lõng, thả trôi trong ý thức học tập của học sinh. 2.3. Các biện pháp và tổ chức thực hiện Đối với bài này tôi sử dụng phương pháp đóng vai theo cách sau đây: Học sinh đóng vai mình chính là các loại phân bón. Cách này được tổ chức theo trình tự như sau: Bước 1: Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm (14 người), tương ứng với 3 loại phân bón. + Nhóm 1: Phân hóa học + Nhóm 2: Phân hữu cơ + Nhóm 3: Phân vi sinh vật Mỗi nhóm phân công nhóm trưởng, thư ký. Giáo viên phát đồ dùng gồm 1 giấy A0, 1 bút dạ và yêu cầu trong thời gian 10 phút cả nhóm cùng nghiên cứu, xây dựng “kịch bản”, sau đó cử đại diện lên bảng “đóng vai” chính là loại phân bón đó. Giới thiệu “về mình” cho cả lớp (xem như là bà con nông dân) thời gian tối đa là 5 phút. Bước 2: Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công đóng vai. Bước 3: Thứ tự các nhóm lên đóng vai. Bước 4: Các học sinh khác theo dõi, phỏng vấn, nhận xét, bổ sung (nếu cần). Bước 5: Giáo viên kết luận, nhận xét, đánh giá. Sau đây tôi xin giới thiệu “kịch bản” của học sinh Lữ Văn Tùng - lớp 10A1 lên đóng vai: “Xin chào tất cả bà con, tôi xin tự giới thiệu tôi là phân hóa học, là loại phân bón được sản xuất theo quy trình công nghiệp, có sử dụng nguyên liệu tự nhiên hoặc tổng hợp. Nếu xét theo số nguyên tố tham gia tôi thường được chia làm 2 loại đó là: phân đa nguyên tố và phân đơn nguyên tố, phân đơn nguyên tố ví dụ như: đạm, lân, kali phân đa nguyên tố ví dụ như NPK... Bà con nông dân nên sử dụng tôi bởi tôi có những đặc điểm sau: thứ nhất, chứa ít nguyên tố nhưng tỷ lệ chất dinh dưỡng cao nên chỉ cần bón lượng ít. Thứ hai, tôi phần lớn dễ tan (trừ lân) nên cây dễ hấp thụ và cho hiệu quả nhanh. Tuy nhiên, tôi lại có nhược điểm là bón nhiều và liên tục nhiều năm sẽ làm đất chua, do đó để sử dụng tôi có hiệu quả bà con cần lưu ý một số vấn đề sau: Đạm, kali bón thúc là chính. Lân (khó tan) chủ yếu bón lót. Đất dễ bị chua hóa nên cần kết hợp bón vôi cải tạo. Bà con lựa chọn tôi chính là đầu tư có hiệu quả, tôi hy vọng sẽ là người bạn đưa lại năng suất cao cho các bác. Chúc bà con có một vụ mùa bội thu và thắng lợi”. Ghi chú: Từ in nghiêng là nội dung chính được HS trình bày trên giấy A0. GIÁO ÁN Tiết PPCT 11. Bài 12: ĐẶC ĐIỂM, TÍNH CHẤT, KỸ THUẬT SỬ DỤNG MỘT SỐ LOẠI PHÂN BÓN THÔNG THƯỜNG I. MỤC TIÊU Sau bài học này, học sinh phải: 1. Về kiến thức: - Kể tên được một số loại phân bón thường dùng trong nông, lâm nghiệp. Cho ví dụ từng loại. - Nêu được đặc điểm và tính chất của một số loại phân bón thường dùng trong nông, lâm nghiệp. - Mô tả được cách sử dụng các loại phân bón và giải thích được cơ sở khoa học của việc sử dụng. Nêu được ví dụ minh họa. - Phân biệt được cách sử dụng phân hữu cơ và phân vi sinh. 2. Về kỹ năng: - Rèn luyện kỹ năng hoạt động nhóm, trình bày trước lớp 3. Về thái độ: - Có ý thức vận dụng được những hiểu biết về phân bón để tham gia và vận động mọi người sử dụng phân bón hợp lý, tăng năng suất cây trồng, tăng độ phì nhiêu cho đất, đồng thời bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe con người. II. CHUẨN BỊ BÀI DẠY - Mẫu một số loại phân bón thường dùng (đạm, lân, kali, NPK) - Tranh ảnh liên đến bài dạy. - 3 tờ giấy A0 , 3 tờ nguồn, 3 bút dạ, 3 cốc (hoặc bình tam giác) III. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC - Thảo luận nhóm – phương pháp đóng vai. - Làm việc với sách giáo khoa. IV. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC 1. Ổn định tổ chức 2. Vào bài mới GV hỏi: Trong việc cải tạo hai loại đất trồng đã học, muốn cung cấp chất dinh dưỡng cho đất người ta thường sử dụng biện pháp nào? (HS: Bón phân) GV giảng thêm: Tại Hội nghị phân bón thế giới (1937) từng nói: “Cơ sở sản xuất nông nghiệp là độ phì nhiêu. Cơ sở độ phì nhiêu là phân bón, nhờ phân bón mà đất xấu củng trở thành đất tốt” ? Vậy phân bón gồm những loại nào? HS trả lời → GV sắp xếp ở bảng Phân đạm, lân, kali Phân hoá học Phân hỗn hợp NPK Phân vi lượng Phân xanh: bèo Phân bón Phân hữu cơ Phân chuồng Phân rác, phân bùn Phân vi sinh vật GV kết luận và vào bài mới: Như vậy, có rất nhiều loại phân bón khác nhau. Muốn sử dụng có hiệu quả thì chúng ta phải hiểu đặc điểm, tính chất và cách sử dụng của các loại phân đó. Để hiểu rõ các loại phân này chúng ta nghiên cứu bài hôm nay (ghi bảng). Hoạt động của giáo viên – học sinh Nội dung chính GV chia lớp làm 3 nhóm, cử nhóm trưởng, thư ký và phát mỗi nhóm 1 bút dạ + 1 tờ giấy A0 Nhóm 1: Tìm hiểu khái niệm, phân loại, đặc điểm và cách sử dụng phân hoá học. Nhóm 2: Tìm hiểu khái niệm, phân loại, đặc điểm và cách sử dụng phân hữu cơ. Nhóm 3: Tìm hiểu khái niệm, phân loại, đặc điểm và cách sử dụng phân vi sinh vật. HS: làm việc theo nhóm, viết vào giấy A0, cử người đóng vai. - Đại diện nhóm 1 lên bảng “đóng vai” HS khác bổ sung → GV tổng kết ? Em hãy kể tên một số loại phân hoá học mà em biết. ? Kể tên một số nhà máy sản xuất phân bón. GV lấy ví dụ: Đạm urê có 46% đạm nguyên chất. Đạm Cloruaamon có 25% đạm nguyên chất GV biễu diễn thí nghiệm: hoà tan một ít đạm, kali và lân vào 3 cốc nước. GV lấy ví dụ: KĐ KĐ H+ 4K+ + KCL → + ALCl3 + HCL AL3+ ALCl3 + 3H20 → AL(0H)3 + 3HCL GV hỏi thêm: Vì sao đạm, kali chỉ cần bón lót với lượng nhỏ? Nếu bón lượng lớn sẽ gây hậu quả gì? GV lấy ví dụ: Bón đạm nhiều sẽ cháy lá - Đại diện nhóm 2 lên bảng “đóng vai” HS khác bổ sung → GV tổng kết ? Kể tên một số loại phân hữu cơ mà em biết. ? Vì sao phân hữu cơ được dùng để bón lót là chính? Bón thúc được không? - Vì sao phải ủ hoai? Tác dụng? - Đại diện nhóm 3 lên bảng “đóng vai” HS khác bổ sung → GV tổng kết ? Đặc điểm có liên quan gì đến cách sử dụng. I. PHÂN HOÁ HỌC 1. Khái niệm - Là loại phân bón được sản xuất theo quy trình công nghiệp, có sử dụng một số nguyên liệu tự nhiên hoặc tổng hợp. 2. Phân loại - Phân đơn nguyên tố: N, P, K - Phân đa nguyên tố: NPK 3. Đặc điểm - Chứa ít nguyên tố nhưng tỷ lệ chất dinh dưỡng cao. - Phần lớn dễ tan (trừ lân) → cây dễ hấp thụ và cho hiệu quả nhanh. - Bón nhiều và liên tục nhiều năm → đất hóa chua. 4. Cách sử dụng - Đạm, kali bón thúc là chính - Lân chủ yếu bón lót - Đất dễ chua hóa → bón vôi cải tạo. VD: CaCO3 + 2H2O → Ca(OH)2 + H2CO3 Ca(OH)2 + 2HCL → CaCL2 + H2O II. PHÂN HỮU CƠ 1. Khái niệm - Là loại phân bón có nguồn gốc từ chất hữu cơ. 2. Phân loại: chia làm 2 loại chính - Phân xanh: bèo, thân lạc, đậu - Phân chuồng: Ngoài ra có các loại phân bùn, phân rác 3. Đặc điểm - Chứa nhiều nguyên tố dinh dưỡng - Thành phần và tỷ lệ không ổn định - Quá trình phân hóa chậm nên hiệu quả chậm (lâu dài). - Bón nhiề
Tài liệu đính kèm:
- skkn_su_dung_phuong_phap_dong_vai_vao_day_bai_12_dac_diem_ti.doc