SKKN Sử dụng kĩ thuật dạy học mảnh ghép, khăn phủ bàn trong bài: “quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em Việt Nam” Giáo dục công dân lớp 7
Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn vinh của đất nước. Giáo dục cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức cho nhân loại, giáo dục giúp học sinh những hiểu biết cơ bản cần thiết về khoa học và cuộc sống. Mặt khác giáo dục còn góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh. Vậy để giáo dục có hiệu quả và đạt chất lượng cao, trong quá trình giảng dạy chúng ta cần thiết phải đổi mới về nội dung, phương pháp dạy học, trong đó đổi mới phương pháp nhằm phát huy tính cực của học sinh là vấn đề quan trọng. Điều 4: Chương I “Luật giáo dục” Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Phương pháp giáo dục phải biết phát hay tính giáo dục tích cực, tự giác chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý thức vươn lên’’ [1]
Môn Giáo dục công dân (GDCD) ở trường THCS có vị trí hàng đầu trong việc định hướng phát triển nhân cách của học sinh thông qua việc cung cấp hệ thống tri thức cơ bản về giá trị đạo đức - nhân văn, đường lối chính sách lớn của Đảng, pháp luật của nhà nước; kế thừa các truyền thống đạo đức, bản sắc dân tộc Việt Nam; trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH; tiếp thu những giá trị tốt đẹp của nhân loại và thời đại.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GD&ĐT QUẢNG XƯƠNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI SỬ DỤNG KĨ THUẬT DẠY HỌC MẢNH GHÉP, KHĂN PHỦ BÀN TRONG BÀI: “QUYỀN ĐƯỢC BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM VIỆT NAM” GDCD LỚP 7 Người thực hiện: Lê Tiến Hùng Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: THCS Nguyễn Du SKKN môn: Giáo dục công dân THANH HOÁ, NĂM 2018 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài: Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn vinh của đất nước. Giáo dục cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức cho nhân loại, giáo dục giúp học sinh những hiểu biết cơ bản cần thiết về khoa học và cuộc sống. Mặt khác giáo dục còn góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh. Vậy để giáo dục có hiệu quả và đạt chất lượng cao, trong quá trình giảng dạy chúng ta cần thiết phải đổi mới về nội dung, phương pháp dạy học, trong đó đổi mới phương pháp nhằm phát huy tính cực của học sinh là vấn đề quan trọng. Điều 4: Chương I “Luật giáo dục” Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Phương pháp giáo dục phải biết phát hay tính giáo dục tích cực, tự giác chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý thức vươn lên’’ [1] Môn Giáo dục công dân (GDCD) ở trường THCS có vị trí hàng đầu trong việc định hướng phát triển nhân cách của học sinh thông qua việc cung cấp hệ thống tri thức cơ bản về giá trị đạo đức - nhân văn, đường lối chính sách lớn của Đảng, pháp luật của nhà nước; kế thừa các truyền thống đạo đức, bản sắc dân tộc Việt Nam; trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH; tiếp thu những giá trị tốt đẹp của nhân loại và thời đại. Với vị trí và vai trò quan trọng như vậy, tuy nhiên môn GDCD vẫn bị coi nhẹ. Nhiều giáo viên chỉ dạy qua loa, chiếu lệ; còn học sinh thì chưa yêu thích môn học. Vì vậy, đòi hỏi mỗi giáo viên dạy bộ môn phải có những phương pháp thích hợp để tạo hứng thú cho học sinh trong các giờ học. Để mỗi giờ học không còn là nhàm chán giữa thầy và trò. Xuất phát từ vai trò của bộ môn, thời gian qua Bộ giáo dục và đào tạo cũng đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của bộ môn, ban hành hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức - kĩ năng, đưa ra một số kĩ thuật dạy học tích cực. Việc áp dụng các kĩ thuật dạy học tích cực vào bài dạy, tôi thấy có hiệu quả, tạo được hứng thú cho học sinh trong các bài học. Vì vậy tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Sử dụng kĩ thuật dạy học mảnh ghép, khăn phủ bàn trong bài: Quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em Việt Nam - GDCD lớp 7” làm sáng kiến kinh nghiệm với hi vọng được chia sẻ những hiểu biết của mình với đồng nghiệp, đồng thời cùng nhau vận dụng vào giảng dạy để nâng cao chất lượng môn GDCD. 1.2. Mục đích nghiên cứu: - Đối với giáo viên: + Sáng tạo về phương pháp dạy học nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác, tự học tập của học sinh. + Trong quá trình dạy học thể hiện mối quan hệ tích cực giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với giáo viên; tiến hành thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, kết quả giữa học tập cá thể với học tập hợp tác, làm việc theo nhóm. + Chú trọng đến việc rèn luyện các kĩ năng, năng lực hành động, vận dụng kiến thức, tăng cường thực hành và gắn nội dung bài học với thực tế cuộc sống. - Đối với học sinh: + Tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động học tập, tự khám phá và lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái độ và hành vi đúng đắn. + Mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân; tích cực thảo luận, tranh luận, đặt câu hỏi cho bản thân, cho thầy cô, cho bạn. + Biết tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm, các sản phẩm hoạt động học tập của bản thân và bạn bè. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 7, Trường THCS Nguyễn Du - Quảng Xương - Thanh Hoá. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: - Bằng phương pháp thực nghiệm: Từ thực tiễn giảng dạy môn GDCD, ở những lớp có sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực cho thấy chất lượng bài giảng đạt hiệu quả cao hơn. - Qua nghiên cứu tài liệu, sách báo, trên các phương tiện thông tin, thu thập được và qua học hỏi kinh nghiệm từ các đồng nghiệp, đặc biệt từ các giờ thao giảng. - Trên nền tảng đó bằng con đường phân tích tổng hợp, so sánh, đối chiếu, khái quát và xử lí thông tin để bước đầu rút ra kinh nghiệm cần thiết về “Sử dụng kĩ thuật dạy học mảnh ghép, khăn phủ bàn trong bài: Quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em Việt Nam - GDCD lớp 7” 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. Trước đây, việc áp dụng các kĩ thuật dạy học tích cực vào giảng dạy còn hạn chế. Nguyên nhân do một số giáo viên vẫn còn có quan điểm cho rằng những kĩ thuật dạy học tích cực rất khó áp dụng vào giảng dạy trong thời gian 45 phút trên lớp nê cũng rất ít giáo viên sử dụng kĩ thuật dạy học. Ngoài ra còn do cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy học còn hạnh chế. Để đáp ứng mục tiêu yêu cầu về phương pháp giáo dục: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh" [1] hiện nay người giáo viên đã thực sự đổi mới phương pháp dạy học, chú ý đến sự tiếp nhận và vận dụng kiến thức, kỹ năng thực hành của học sinh. Giờ học GDCD học sinh đã học tập tích cực, chủ động, hứng thú học hơn. Cụ thể là sử dụng các kĩ thuật dạy học sẽ khắc phục lối giáo dục cứng nhắc một chiều, phát huy được tính tích cực, năng động, sáng tạo, tư duy logíc của học sinh. 2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Sau khi dạy xong bài “Quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em Việt Nam” - GDCD lớp 7 bằng phương pháp thông thường (thuyết trình là chủ yếu, không sử dụng các kĩ thuật dạy học) tôi khảo sát tình trạng học tập của học sinh đối lớp 7B1, 7B2 và thu được kết quả như sau: Nội dung khảo sát SS Kết quả Thường xuyên Đôi khi Không Sl % Sl % Sl % Chú ý nghe giảng 75 40 53.3 20 26.7 15 20.0 Tham gia trả lời câu hỏi 75 35 46.7 26 34.7 14 18.6 Nhận xét ý kiến của bạn 75 30 40.0 20 26.7 25 33.3 Tự giác làm bài tập 75 40 53.3 15 20.0 20 26.7 Qua kết quả trên cho thấy: Mức độ chú ý nghe giảng còn hạn chế; học sinh tham gia trả lời câu hỏi, nhận xét ý kiến của bạn còn ít; vẫn còn học sinh chưa tự giác làm bài tập. Đồng thời, ở nhiều học sinh hoạt động giao tiếp, kĩ năng sống rất hạn chế, chưa mạnh dạn nêu lên chính kiến của mình trong các giờ học, không dám tranh luận nhất là với thầy cô giáo, chưa có thói quen hợp tác trong học tập đã ảnh hưởng rất không tốt đến việc học tập của học sinh. Nguyên nhân chủ yếu cho những hạn chế trên, đó là: 2.2.1. Nguyên nhân khách quan: Do nhu cầu của xã hội hiện nay nên học sinh học thiên sang khối tự nhiên, học sinh có xu hướng không thích môn GDCD, học sinh còn xem nhẹ môn học nên thiếu chú ý học khi giáo viên giảng bài. 2. 2.2. Nguyên nhân chủ quan. Đối với những bài học GDCD nói chung, bài "Quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em Việt Nam” nói riêng do thói quen cũ giáo viên còn truyền thụ theo kiểu một chiều giáo viên hỏi - học sinh trả lời, giáo viên chưa chủ động trong việc sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực như kĩ thuật mảnh ghép, kĩ thuật khăn phủ bàn... do đó không kích thích được hứng thú học tập của các em. Hơn nữa, lượng kiến thức cơ bản của học sinh còn quá ít (các em chưa hiểu được quyền cũng như bổn phận của trẻ em...) do các em chưa chăm học, chưa hứng thú học, lại ít đọc nghiên cứu tài liệu... Chính vì vậy mà hiệu quả của giờ học chưa cao. 2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề. Trong khi dạy bài "Quyền bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em Việt Nam” tôi đã sử dụng 2 kĩ thuật dạy học tích cực, đó là kĩ thuật mảnh ghép và kĩ thuật khăn phủ bàn. 2.3.1. “Kĩ thuật mảnh ghép” “Kĩ thuật mảnh ghép” là kĩ thuật dạy học mang tính hợp tác, kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm giải quyết một nhiệm vụ phức hợp, kích thích sự tham gia tích cực cũng như nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác, tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của mỗi cá nhân. * Cách tiến hành: Vòng 1: Nhóm chuyên sâu Lớp học sẽ được chia thành các nhóm gồm 6 học sinh. Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ với những nội dung học tập khác nhau. Ví dụ: + Nhóm 1: Nhiệm vụ A + Nhóm 2: Nhiệm vụ B + Nhóm 3: Nhiệm vụ C Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, suy nghĩ về câu hỏi, chủ đề và ghi lại những ý kiến của mình. Khi thảo luận nhóm phải đảm bảo mỗi thành viên trong từng nhóm đều trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao và trở thành chuyên gia của lĩnh vực đã tìm hiểu và có khả năng trình bày lại câu trả lời của nhóm ở vòng 2. Vòng 2: Nhóm mảnh ghép Hình thành nhóm mới 6 học sinh (bao gồm 2 người từ nhóm 1; 2 từ nhóm 2; 2 người từ nhóm 3), gọi là nhóm mảnh ghép. Các câu hỏi và câu trả lời của vòng 1 được các thành viên trong nhóm mới chia sẻ đầy đủ với nhau. Khi mọi thành viên trong nhóm mới đều hiểu, được tất cả nội dung ở vòng 1 thì nhiệm vụ mới sẽ được giao cho các nhóm để giải quyết (lưu ý nhiệm vụ mới này phải gắn liền với kiến thức thu được ở vòng 1). Các nhóm mới thực hiện nhiệm vụ trình bày và chia sẻ kết quả. 2.3.2. “Kĩ thuật khăn phủ bàn” “Kĩ thuật khăn phủ bàn” là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm: - Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực - Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân học sinh - Phát triển mô hình có sự tương tác giữa HS với HS * Tác dụng đối với học sinh: - Học sinh được tiếp cận với nhiều giải pháp và chiến lược khác nhau - Rèn kĩ năng suy nghĩ, quyết định và giải quyết vấn đề - Học sinh đạt được mục tiêu học tập cá nhân cũng như hợp tác - Sự phối hợp làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm nhỏ tạo cơ hội nhiều hơn cho học tập có sự phân hóa - Nâng cao mối quan hệ giữa học sinh. Tăng cường sự hợp tác, giao tiếp, học cách chia sẽ kinh nghiệm và tôn trọng lẫn nhau. - Nâng cao hiệu quả học tập * Cách tiến hành - Chia học sinh thành các nhóm và phát cho mỗi nhóm một tờ giấy A0 - Trên giấy A0 chia thành các phần, gồm phần chính giữa và các phần xung quanh. Phần xung quanh được chia theo số thành viên của nhóm (ví dụ nhóm 4 người). Mỗi người ngồi vào vị trí tương ứng với từng phần xung quanh. - Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng 3 phút, tập trung suy nghĩ trả lời câu hỏi/nhiệm vụ theo cách nghĩ cách hiểu riêng của mỗi cá nhân và viết vào phân giấy của mình trên tờ A0. - Trên cơ sở những ý kiến của mỗi cá nhân, học sinh thảo luận nhóm, thống nhất ý kiến và viết vào phần chính giữa của tờ giấy A0 “khăn phủ bàn”. Viết ý kiến cá nhân Viết ý kiến cá nhân Ý KIẾN CHUNG CỦA NHÓM Viết ý kiến cá nhân Viết ý kiến cá nhân 2.3.3. Sử dụng kĩ thuật mảnh ghép, kĩ thuật khăn phủ bàn trong bài “Quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em Việt Nam” - GDCD lớp 7. 1. KiÓm tra bµi cò: Kiểm tra bài cũ là là bước rất cần thiết và quan trọng trong các giờ học. Trước khi dạy bài mới giáo viên phải kiểm tra bài cũ. Bởi lẽ, qua đó kiểm tra xem thái độ, tinh thần học tập, việc làm bài tập, học bài cũ ở nhà và khả năng tiếp thu ở bài trước của học sinh ra sao, từ đó giáo viên có định hướng, thay đổi phương pháp dạy học phù hợp cho bài hôm sau để hiệu quả, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao. - Giáo viên đưa lên màn hình Slide 1 mục kiểm tra bài cũ. Kết thúc phần trả lời giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét và giáo viên đưa ra đáp án (Slide 2) 2. Hoạt động khởi động Để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ đầu tôi đã thực hiện giới thiệu bài mới bằng cách cho học sinh hát bài “Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai” của nhạc sĩ Lê Mây. Yêu cầu các em hát to, đúng nhạc, giọng hát hùng hồn, giàu cảm xúc... Sau đó yêu cầu học sinh xác định nội dung của bài hát. Đồng thời giáo viên giới thiệu cho học sinh: Trẻ em là tương lai của gia đình, của đất nước, của thế giới... chính vì vậy trẻ em cần được chăm sóc, bảo vệ và giáo dục tốt.... 3. Hoạt động hình thành kiến thức Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung cần đạt Hoạt động 1. Tìm hiểu một số quyền cơ bản của trẻ em được quy định trong Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. GV: Sử dụng “kĩ thuật mảnh ghép” để tìm hiểu quyền cơ bản của trẻ em được quy định trong Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. - Chia lớp thành 3 nhóm- “Nhóm chuyên sâu” - GV phát phiếu học tập, đồng thời chiếu nội dung câu hỏi thảo luận (Slide 3) - Cả nhóm thảo luận (thời gian 3 phút) - Sau đó GV cho hình thành “nhóm mảnh ghép”: Yêu cầu mỗi em trong 3 nhóm chuyên sâu trên sẽ ghép lại thành 1 nhómNhóm mảnh ghép. (3phút) - Yêu cầu mỗi em lần lượt trình bày nội dung mình đã thảo luận ở “nhóm chuyên sâu” cho các thành viên khác trong nhóm biết. - Sau khi cả “ nhóm mảnh ghép” đều biết được quyền được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục của trẻ em thì GV đặt câu hỏi mới: ? Nêu các quyền cơ bản của trẻ em Việt Nam được quy định trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em? - Học sinh trả lời theo yêu cầu. [2] - GV chốt kiến thức, kết luận (Slide 4) GV: Giới thiệu điều 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20 trong Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004. (Slide 5,6) [4] GV: Yêu cầu học sinh làm bài tập 1 ? Các bức ảnh sau thể hiện quyền gì của trẻ em (Slide 7) [5] HS: Trả lời GV: Kết luận (Slide 8) ? Em có suy nghĩ gì khi xem các hình ảnh này? (Slide 9) [6] HS: Đây là những hành vi xâm phạm quyền trẻ em. - Hình ảnh 1, 4: Xâm phạm thân thể, sức khỏe của trẻ em. - Hình ảnh 2, 3: Bắt trẻ em làm những công việc nặng nhọc, quá sức. GV kết luận: Đây là những hành vi bị nhà nước nghiêm cấm, giới thiệu khoản 6, 7 điều 7 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 (Slide 10) - GV: Yêu cầu HS đọc điều 7 Hoạt động 2: Tìm hiểu bổn phận của trẻ em trong gia đình, nhà trường và xã hội. - GV sử dụng “kĩ thuật khăn phủ bàn”. - Chia lớp thành 6 nhóm ( mỗi nhóm 6 học sinh). Thời gian: 5 phút - Câu hỏi thảo luận: (Slide 11 ) - Phát cho mỗi nhóm 1 tờ giấy A0, trên tờ giấy đã chia thành 6 phần xung quanh và 1 phần chính giữa. - Các thành viên của nhóm sẽ ngồi vào vị trí tương ứng với từng phần xung quanh. - Mỗi em sẽ làm việc độc lập trong vòng 2 phút, trả lời câu hỏi theo cách hiểu riêng (Viết vào phần giấy của mình trên giấy A0) - Sau đó các em thảo luận nhóm thống nhất ý kiến và viết vào phần chính giữa của tờ giấy A0 - GV gọi đại diện từng nhóm lên trình bày, các nhóm khác nhận xét, bổ sung. [2] - GV kết luận (Slide 12) ? Trong các hình ảnh sau trẻ em thực hiện bổn phận gì của mình? (Slide 13) [6] HS: Trả lời - Hình ảnh 1: Bổn phận đối với xã hội - Hình ảnh 2: Bổn phận đối với nhà trường - Hình ảnh 3, 4: Bổn phận đối với gia đình ? Bản thân em và các bạn đã thực hiện bổn phận của mình đối với gia đình, nhà trường, xã hội như thế nào? HS:... ? Nêu 1 số biểu hiện mà trẻ em chưa thực hiện tốt bổn phận của mình? HS:.. GV: Yêu cầu HS làm bài tập 2 (Slide 14) [7] Hoạt động 3 : Tìm hiểu trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và xã hội trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ em. GV : Cho học sinh đọc truyện Một tuổi thơ bất hạnh (trang 38 SGK) ? Theo em, vì sao Thái có những hành vi vi phạm pháp luật ? HS : Trả lời ? Thái đã không được hưởng những quyền gì so với các bạn cùng lứa tuổi ? HS : - Thái không được hưởng những quyền : + Quyền được chung sống với cha mẹ; + Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng; + Quyền được học tập; + Quyền được vui chơi, giải trí... ? Để trẻ em được hưởng các quyền của mình thì gia đình cần phải có trách nhiệm gì? HS: Trả lời GV: Kết luận (Slide 15) ? Khi gặp Thái ở trường giáo dưỡng, phóng viên báo đã nhận xét về Thái như thế nào? HS: Đó là một em bé nhanh nhẹn, vui tính, có đôi mắt to và thông minh. ? Nhà nước cần có trách nhiệm gì đối với trẻ em nói chung và trẻ em có hoàn cảnh như Thái nói riêng? HS: Trả lời GV: Kết luận (Slide16) ? Nêu những việc làm cụ thể gia đình, nhà trường, Nhà nước và xã hội đã thực hiện trách nhiệm đối với bản thân em và các bạn trong trường ? - HS : Cha mẹ quan tâm đến việc học tập của con cái. + Nhà nước tiêm phòng cho trẻ em + Nhà nước miễn học phí cho học sinh hộ nghèo. GV : Giới thiệu 1 số hình ảnh thể hiện trách nhiệm của gia đình, nhà nước và xã hội đối với trẻ em. (Slide 17) [6] HS : Phát hiện - Hình ảnh 1,3 trách nhiệm gia đình - Hình ảnh 2,4 trách nhiệm nhà nước, xã hội đối với trẻ em. ? Em có suy nghĩ gì khi xem những hình ảnh này ? (Slide 18) [6] HS : Thể hiện vô trách nhiệm, mất nhân tính, độc ác của bố mẹ đối với con cái Pháp luật cần nghiêm trị bố mẹ có hành vi như vậy. GV : Giới thiệu điều 26 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004(Slide 19) - GV : Yêu cầu HS đọc điều 26 [2] [3] [4] [5] [4] [2] [3] [3] [3] [4] 4. Hoạt động luyện tập GV : Yêu cầu HS làm bài tập a, trang 41 SGK (Slide 20) [5] Đáp án : - Hành vi xâm phạm đến quyền trẻ em: 1, 2, 4 5. Hoạt động vận dụng Giáo viên cho học sinh làm bài tập tình huống sau: (Slide 21) [5] HS: làm bài tập 6. Hoạt động mở rộng GV: tổng kết bài học, hướng dẫn học bài ở nhà. - Chuẩn bị bài mới (Sưu tầm tranh ảnh thể hiện bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên của học sinh) 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. Sau khi “Sử dụng kĩ thuật dạy học mảnh ghép, khăn phủ bàn trong bài: Quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em Việt Nam - GDCD lớp 7” tôi khảo sát tình trạng học tập của học sinh lớp 7B1, 7B2 và thu được kết quả như sau: Nội dung khảo sát SS Kết quả Thường xuyên Đôi khi Không Sl % Sl % Sl % Chú ý nghe giảng 75 61 81.4 10 13.3 4 5.3 Tham gia trả lời câu hỏi 75 55 73.3 15 20.0 5 6.7 Nhận xét ý kiến của bạn 75 54 72 15 20.0 6 8.0 Tự giác làm bài tập 75 60 80.0 11 14.7 4 5.3 Như vậy, sau khi sử dụng kĩ thuật dạy học mảnh ghép, khăn phủ bàn vào trong bài dạy thì kết quả học tập của học sinh đã tăng lên đáng kể. Các em đã tập trung suy nghĩ, chú ý lắng nghe giáo viên giảng bài, tích cực tham gia trả lời câu hỏi, biết nhận xét ý kiến của bạn trên tinh thần xây dựng, tự giác làm bài tập, chính điều này đã đem lại hiệu quả cao trong quá trình học sinh lĩnh hội kiến thức và vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống. Là giáo viên đang đứng trên bục giảng khi nghiên cứu đề tài này nó giúp tôi nắm vững lí luận, nội dung và yêu cầu của kĩ thuật dạy học tích cực có thể áp dụng có hiệu quả hơn trong quá trình dạy học để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ; nó góp phần đổi mới công tác dạy học môn GDCD nói chung và môn GDCD lớp 7 nói riêng theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ : 3.1. Kết luận: Trên đây là nội dung chính của đề tài “ Sử dụng kĩ thuật dạy học mảnh ghép, khăn phủ bàn trong bài: Quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em Việt Nam - GDCD lớp 7”. Trong sáng kiến tôi đã đưa ra kết quả của hai phương pháp dạy khác nhau. Đó là là kết quả của phương pháp dạy truyền thống nhưng đã có sự đổi mới và kết quả của sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực: Kĩ thuật mảnh ghép, khăn phủ bàn. Cả hai phương pháp đều nhằm mục đích giúp các em thẩm thấu bài “Quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em Việt Nam” một cách tốt nhất. Tuy nhiên khi sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực thì hiệu quả giờ dạy sẽ cao hơn rất nhiều. Qua việc sử dụng “kĩ thuật mảnh ghép” trong bài dạy, chính kĩ thuật này đã tạo ra hoạt động đa dạng, phong phú, học sinh được tham gia vào các nhiệm vụ khác nhau và các mức độ yêu cầu khác nhau. Tạo cho học sinh tính tích cực, nổ lực tham gia và bị cuốn hút vào các hoạt động để hoàn thành vai trò, trách nhiệm của mỗi cá nhân. Thông qua học động này hình thành ở học sinh tính chủ động, năng động, linh hoạt, sáng tạo và tinh thầm trách nhiệm cao trong học tập. Đồng thời hình thành ở học sinh các kĩ năng giao tiếp, trình bày, hợp tác
Tài liệu đính kèm:
- skkn_su_dung_ki_thuat_day_hoc_manh_ghep_khan_phu_ban_trong_b.doc