SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng tìm thành phần chưa biết trong phép tính cộng, trừ cho học sinh lớp 2
Môn toán là một trong những môn học rất quan trọng đối với học sinh. Bởi học toán giúp học sinh biết suy luận một cách ngắn gọn, có căn cứ đầy đủ, chính xác, nhất quán; biết trình bày, diễn đạt ý nghĩ của mình một cách ngắn gọn, rõ ràng, mạch lạc. Môn toán ở Tiểu học còn góp phần làm cho học sinh phát triển toàn diện, hình thành ở các em những cơ sở của thế giới quan khoa học, rèn luyện trí thông minh; xây dựng những tình cảm, thói quen, đức tính tốt đẹp của con người mới. Để phù hợp với tâm sinh lí của học sinh Tiểu học thì môn Toán được chia thành các mạch kiến thức khác nhau. Các mạch kiến thức này được xây dựng theo nguyên tắc vòng tròn đồng tâm và xoay quanh mạch số học, lấy mạch số học làm cốt lõi cho việc củng cố, phát triển kiến thức của học sinh.
Nội dung trọng tâm của chương trình toán Tiểu học là số học. Trong nội dung này thì các bài toán về tìm thành phần chưa biết là một dạng bài quan trọng góp phần hình thành và phát triển những kĩ năng cơ bản trong đó có kĩ năng tính toán – một kĩ năng rất cần thiết trong cuộc sống, lao động và học tập của học sinh. Các bài toán về tìm thành phần chưa biết còn cung cấp cho học sinh những kiến thức về số học với nhiều dạng bài phong phú xoay quanh bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Các kiến thức đó khi hình thành lại được củng cố, áp dụng vào bài tập với mức độ nâng dần từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Đồng thời, việc học các bài toán về tìm thành phần chưa biết còn hỗ trợ cho việc học nội dung đại lượng, giải toán và các môn học khác.
Qua nhiều năm dạy học sinh lớp 2 tôi nhận thấy rằng, học sinh tiếp thu các bài toán về tìm thành phần chưa biết còn nhiều hạn chế. Các em thường không nhớ tên gọi thành phần của phép tính, không nắm được bản chất của dạng bài nên không nhớ cách tìm cho thành phần đó như thế nào. Hơn nữa kĩ năng tính của các em chưa tốt dẫn đến kết quả bài làm của các em còn sai nhiều. Cá biệt vẫn có những em sai cả cách trình bày bài. Vì lẽ đó, học sinh thường “ngại” học các bài toán về tìm thành phần chưa biết, nếu có gặp trong các bài kiểm tra thì các em sẵn sàng bỏ qua dạng bài này.
PHẦN MỞ ĐẦU. Lý do chọn đề tài. Môn toán là một trong những môn học rất quan trọng đối với học sinh. Bởi học toán giúp học sinh biết suy luận một cách ngắn gọn, có căn cứ đầy đủ, chính xác, nhất quán; biết trình bày, diễn đạt ý nghĩ của mình một cách ngắn gọn, rõ ràng, mạch lạc. Môn toán ở Tiểu học còn góp phần làm cho học sinh phát triển toàn diện, hình thành ở các em những cơ sở của thế giới quan khoa học, rèn luyện trí thông minh; xây dựng những tình cảm, thói quen, đức tính tốt đẹp của con người mới. Để phù hợp với tâm sinh lí của học sinh Tiểu học thì môn Toán được chia thành các mạch kiến thức khác nhau. Các mạch kiến thức này được xây dựng theo nguyên tắc vòng tròn đồng tâm và xoay quanh mạch số học, lấy mạch số học làm cốt lõi cho việc củng cố, phát triển kiến thức của học sinh. Nội dung trọng tâm của chương trình toán Tiểu học là số học. Trong nội dung này thì các bài toán về tìm thành phần chưa biết là một dạng bài quan trọng góp phần hình thành và phát triển những kĩ năng cơ bản trong đó có kĩ năng tính toán – một kĩ năng rất cần thiết trong cuộc sống, lao động và học tập của học sinh.. Các bài toán về tìm thành phần chưa biết còn cung cấp cho học sinh những kiến thức về số học với nhiều dạng bài phong phú xoay quanh bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Các kiến thức đó khi hình thành lại được củng cố, áp dụng vào bài tập với mức độ nâng dần từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Đồng thời, việc học các bài toán về tìm thành phần chưa biết còn hỗ trợ cho việc học nội dung đại lượng, giải toán và các môn học khác. Qua nhiều năm dạy học sinh lớp 2 tôi nhận thấy rằng, học sinh tiếp thu các bài toán về tìm thành phần chưa biết còn nhiều hạn chế. Các em thường không nhớ tên gọi thành phần của phép tính, không nắm được bản chất của dạng bài nên không nhớ cách tìm cho thành phần đó như thế nào. Hơn nữa kĩ năng tính của các em chưa tốt dẫn đến kết quả bài làm của các em còn sai nhiều. Cá biệt vẫn có những em sai cả cách trình bày bài. Vì lẽ đó, học sinh thường “ngại” học các bài toán về tìm thành phần chưa biết, nếu có gặp trong các bài kiểm tra thì các em sẵn sàng bỏ qua dạng bài này. Vậy làm thế nào để các em “yêu thích” dạng bài và có được kĩ năng tìm thành phần chưa biết một cách tốt nhất. Vấn đề này đã làm tôi suy nghĩ, trăn trở rất nhiều và nó là động lực giúp tôi tìm tòi, nghiên cứu. Qua quá trình nghiên cứu và trải nghiệm trong thực tế giảng dạy, tôi muốn chia sẻ với các bạn đồng nghiệp kinh nghiệm: “ Một số biện pháp rèn kĩ năng tìm thành phần chưa biết trong phép tính cộng, trừ cho học sinh lớp 2”. Với đề tài này tôi chỉ đi sâu nghiên cứu và áp dụng giảng dạy về kĩ năng tìm thành phần chưa biết trong phép tính cộng, trừ cho học sinh lớp 2. Mong rằng sẽ nhận được sự góp ý chân thành của các cấp quản lí và các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn chỉnh hơn và áp dụng rộng rãi trong giảng dạy. 2.Mục đích nghiên cứu. Đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm rèn kĩ năng tìm thành phần chưa biết cho học sinh lớp 2 góp phần nâng cao được chất lượng đại trà một cách bền vững. 3. Đối tượng nghiên cứu. Luyện kỹ năng tìm thành phần chưa biết trong phép tính cộng, trừ cho học sinh lớp 2 năm học 2014 – 2015 trong Trường Tiểu học. 4. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp điều tra thực trạng. - Phương pháp nghiên cứu lý luận. - Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm. B. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN. Các bài toán về tìm thành phần chưa biết được đưa vào dạy trong chương trình lớp 2. Đây là một mảng kiến thức cơ bản, xuyên suốt của chương trình. Ở lớp 1 học sinh được học các phép tính cộng, trừ với vòng số nhỏ và làm quen với một số bài toán về điền số vào ô trống nhưng các bài toán đó chủ yếu luyện tập cho học sinh về kĩ năng tính toán chứ chưa khái quát thành quy tắc tính. Ví dụ: Điền số vào ô trống: + 3 = 6. Như vậy với bài toán này mục đích của sách giáo khoa nhằm giúp học sinh luyện tập về bảng cộng 6 chứ không nhằm mục đích tìm số hạng chưa biết. Ở lớp 2 trước khi học về tìm thành phần chưa biết trong phép tính cộng, trừ học sinh được học về tên gọi thành phần của phép tính cộng, trừ (Tiết 3: Số hạng- Tổng. Tiết 7: Số bị trừ - Số trừ - Hiệu) và chùm bảng cộng, trừ. Sự sắp xếp của chương trình Sách giáo khoa như vậy sẽ giúp các em được trang bị đầy đủ kiến thức và kĩ năng cần thiết phục vụ cho bài toán tìm thành phần chưa biết. Các em sẽ biết cách tìm từng thành phần chưa biết trong phép tính cộng, trừ qua từng tiết cụ thể (Tiết 44: Tìm một số hạng trong một tổng ; Tiết 55: Tìm số bị trừ; Tiết 72: Tìm số trừ). Nhưng chỉ dừng lại ở số tự nhiên, lên lớp trên các em sẽ được mở rộng, nâng cao dần về vòng số và được rèn kĩ năng thực hành tính sang số thập phân, phân số. Qua đây, tôi muốn khẳng định rằng những kiến thức sách giáo khoa cung cấp rất phù hợp và vừa sức đối với học sinh và nó được xây dựng theo hệ thống với mức độ nâng cao dần theo trình độ của học sinh. Nếu học sinh chiếm lĩnh được tất cả những nội dung kiến thức về tìm thành phần chưa biết trong chương trình củng đã đáp ứng được một phần trong cuộc sống thực tế của các em. II. THỰC TRẠNG Qua nhiều năm dạy học sinh lớp 2, tôi nhận thấy học sinh chưa thật sự hứng thú với các bài toán tìm thành phần chưa biết của phép tính. Các em còn hổng kiến thức và kĩ năng tính toán nên các em hay làm nhầm, làm sai nhiều. Khi gặp dạng bài tìm thành phần chưa biết nhiều em rất ngại học, chưa hào hứng, một số em còn rất yếu phần này. Từ thực trạng trên, tôi muốn hệ thống ra các dạng toán “Tìm thành phần chưa biết trong phép tính cộng trừ” để có những phương pháp làm bài thích hợp giúp học sinh làm bài tốt và thêm yêu thích dạng toán này cũng như biết vận dụng để tìm thành phần chưa biết trong phép tính nhân, chia về sau. Để khảo sát mức độ tiếp thu bài của học sinh, sau khi dạy hết phần tìm thành phần chưa biết trong phép tính cộng, trừ như phân phối chương trình của sách giáo khoa, tôi tiến hành khảo sát chất lượng của 25 học sinh lớp 2C năm học 2014- 2015 như sau: Bài 1: Tìm x x + 14 = 40 b) x - 24 = 34 c) 87 – x = 45 Bài 2: Tìm x a) 45 – x = 19 b) 48 + x = 69 c) x – 17 = 18 Kết quả khảo sát: Điểm giỏi Điểm khá Điểm trung bình Điểm yếu Bài 1 3em = 12% 6em = 24% 7em = 28% 9em = 36% Bài 2 4em = 16% 5em = 20% 8em = 32% 8em = 32 % Từ kết quả trên, tôi nhận thấy kĩ năng tìm thành phần chưa biết của học sinh còn nhiều hạn chế, số lượng học sinh làm sai củng như bỏ bài còn nhiều. Qua chấm bài và tìm hiểu tôi phân đối tượng học sinh theo các lỗi như sau: Tổng số học sinh Không nhớ quy tắc tính Sai khi tính kết quả Sai trong trình bày 25 SL TL SL TL SL TL 10 40% 11 44% 4 16% * Nguyên nhân của những tồn tại trên - Học sinh chưa nắm chắc được tên gọi thành phần của phép tính nên không nhớ cách tìm cho thành phần đó là gì, ví như bài yêu cầu tìm số trừ thì các em lại làm sang cách tìm số hạng, cộng, trừ lẫn lộn. Khi gọi tên của thành phần phép tính các em cũng gọi tên sai. - Học sinh chưa thuộc được bảng cộng, trừ nên kĩ năng tính đặc biệt là tính cộng, trừ có nhớ chưa tốt nên khi thực hiện tính kết quả còn làm sai. - Học sinh chưa có thói quen cũng như kĩ năng nhẩm để “thử lại” kết quả nên không biết mình làm đúng hay sai. - Học sinh còn yếu trong cách trình bày. Thực tế cho thấy nhiều em rất nhanh trong phân tích đề và tìm hướng làm bài nhưng khi vào làm bài lại vướng trong cách trình bày bài. * Trước thực trạng đó. Tôi băn khoăn, suy nghĩ bằng cách nào đó tôi phải nâng cao chất lượng và rèn kĩ năng tìm thành phần chưa biết cho các em tôi đã không ngừng tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, các trang mạng, bản thân cũng tự lập nick để tham gia giải toán trên Violimpic cùng với học sinh. Trong chương trình đó, tôi đã giải các bài toán khó. Sau quá trình nghiên cứu và tự bồi dưỡng, tôi đã nhận ra được nhiều điều và điều quan trọng nhất là tôi đã tìm ra được cách dạy cho học sinh cách tìm thành phần chưa biết của phép tính. III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ ÁP DỤNG. Giải pháp 1: Tự học, tự bồi dưỡng. Nghiên cứu để nắm nội dung chương trình, phân dạng toán. Một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng của học sinh đó là giáo viên. Ngoài sự tâm huyết, lòng nhiệt tình thì giáo viên phải có phương pháp tốt, trình độ chuyên môn vững vàng. Ý thức được điều này bản thân luôn tự học, tự bồi dưỡng để chuyển tải đến học sinh tốt hơn. Đặc biệt vào đầu năm học nhà trường đã tổ chức hội thảo chuyên đề bồi dưỡng giáo viên về phương pháp dạy học, tôi đã tích cực tham gia các chuyên đề đó. Trong đợt chuyên đề tôi đã viết báo cáo tham luận chuyên đề về toán “Giúp học sinh Tiểu học có kĩ năng tìm thành phần chưa biết” và dạy minh họa cho chuyên đề (Bài: Tìm một số hạng trong một tổng (Tiết 44 – SGK Toán 2 trang 45). Bản thân là người chuẩn bị và triển khai chuyên đề trước tập thể giáo viên trong trường và đã được mọi người đồng tình ủng hộ. Bên cạnh đó tôi cùng với đồng nghiệp trong tổ khối thường xuyên trao đổi nội dung dạy học khó, vướng mắc vào các buổi sinh hoạt chuyên môn và những giờ ra chơi thứ sáu hàng tuần để trao đổi, tìm phương pháp dạy học mới để truyền tải đến học sinh dễ hiểu nhất. Hơn nữa, tôi đã nghiên cứu để dạy mẫu những bài khó cho đồng nghiệp dự giờ, góp ý rút kinh nghiệm, trong đó có bài về tìm thành phần chưa biết (cả chính khóa và trong tăng giờ buổi 2). Ngoài ra, tôi thường xuyên nghiên cứu để có những sáng kiến trong dạy học. Tôi cũng đã có những sáng kiến hiện đang được thử nghiệm tại trường và đang mang lại hiệu quả thiết thực. Qua quá trình bồi dưỡng đã giúp tôi tháo gỡ được rất nhiều vướng mắc trong dạy học, đồng thời tôi đã tích luỹ thêm được nhiều kiến thức, kĩ năng để ngày càng vững hơn về chuyên môn, nghiệp vụ. Ngoài việc chuẩn bị bài trước khi lên lớp, tôi thường nghiên cứu các loại tài liệu khác nhau như: Bài tập cuối tuần; Ôn tập cuối tuần Toán 2; Bài tập bổ trợ và nâng cao; Tự luyện Violimpic... Đặc biệt các đề thi trên mạng, thi Violimpic đây là những trang mạng thực sự bổ ích đối với tôi. Các bài toán trong các tài liệu này rất vừa sức và phù hợp với học sinh lớp 2, đó là tài liệu bổ ích để cả giáo viên và học sinh tham khảo. Đây còn là kho dữ liệu rất quý giúp giáo viên lựa chọn nội dung cho buổi học 2. Tuy nhiên các tài liệu tham khảo mới đưa ra các bài toán về tìm thành phần chưa biết bước đầu có mở rộng dạng bài cho học sinh, còn việc phân tích đề và phân tích, rút cách làm thì chưa đề cập đến. Trước tồn tại đó khi giảng dạy tôi phân loại và sắp xếp theo từng nội dung từ dễ, đến khó để cung cấp cho học sinh có hệ thống và hướng dẫn học sinh cách làm của từng dạng bài. Các bài toán về tìm thành phần chưa biết rất đa dạng và phong phú, nhiều bài cũng khá phức tạp với học sinh. Để giúp các em dễ dàng tiếp thu, ghi nhớ tôi phân chia các bài tìm thành phần chưa biết trong phép tính cộng, trừ thành hai dạng: Dạng 1: Dạng cơ bản trong chương trình Sách giáo khoa. - Tìm số hạng trong một tổng - Tìm số bị trừ - Tìm số trừ Dạng 2: Dạng mở rộng - Vế phải chứa phép tính - Vế trái là một dãy tính - Kết hợp hai dạng trên Trong chương trình sách giáo khoa thì dạng bài cơ bản (Dạng 1) học sinh chỉ được học 1 tiết bài mới (Riêng bài tìm số hạng có thêm một tiết luyện tập), còn lại các bài tìm thành phần chưa biết chỉ lác đác xuất hiện qua các bài hình thành phép tính với mục đích rèn kĩ năng thực hiện phép tính vừa học. Hơn nữa, theo chuẩn Kiến thức kĩ năng thì nhiều bài tìm thành phần chưa biết trong SGK còn bị cắt bài, cắt bớt phép tính nên học sinh được thực hành còn ít. Sang đến bảng nhân chia thì hầu như các em không gặp lại dạng bài này nữa. Với thời lượng và sự phân phối chương trình như vậy thì chưa đủ thấm với học sinh nhất là với lứa tuổi “chóng quên” của học sinh lớp 2. Đặc biệt ngoài các bài toán tìm thành phần chưa biết của phép tính cộng, trừ mà sách giáo khoa cung cấp còn có những dạng bài khác rất vừa sức với học sinh lớp 2 mà các buổi học chính khóa chưa có thời gian để cung cấp cho các em. Vì lẽ đó để rèn kĩ năng tìm thành phần chưa biết cho các em, tôi đã xây dựng hệ thống chương trình và dạy vào buổi 2 của chương trình 10 buổi/tuần. Với chương trình này, tôi đã củng cố, hệ thống lại những kiến thức cơ bản đã học sau đó mở rộng thêm các bài toán tìm thành phần chưa biết khác rất vừa sức với học sinh (Dạng 2). Tôi đã mạnh dạn áp dụng thử nghiệm trong thực tế giảng dạy và có kết quả khả quan. Giải pháp 2: Củng cố chắc kiến thức về bảng cộng, trừ và phép tính. Đối với học sinh lớp 2, việc thuộc các bảng cộng, trừ có nhớ trong phạm vi 20, cũng như kĩ năng thực hiện thành thạo các các phép tính cộng, trừ (có nhớ, không nhớ) là một hoạt động quan trọng, giúp các em có kĩ năng tính nhanh. Kĩ năng này rất cần thiết, nó là nền móng vững chắc để học sinh có thể chiếm lĩnh được các kiến thức khác trong đó có tìm thành phần chưa biết của phép tính.Từ thực tế giảng dạy cho thấy nhiều em biết cách tìm, làm bài tốt nhưng khi ra kết quả cuối cùng thường làm sai do kĩ năng cộng, trừ chưa tốt. Để rèn được kĩ năng thuộc được bảng cộng, trừ và kĩ năng thực hành tính cho học sinh, việc dạy cho các em nắm bản chất của từng bảng rất quan trọng giúp cho học sinh hiểu và thuộc bảng chứ không phải là đọc vẹt. Khi hình thành bất cứ một bảng cộng, trừ hay một phép tính nào, tôi thường dạy theo ba bước: Bảng cộng, trừ Bước 1: Thao tác trên đồ dùng trực quan Bước 2: Lập bảng Bước 3: Luyện thuộc bảng Phép tính Bước 1: Thao tác trên đồ dùng trực quan Bước 2: Hướng dẫn kĩ thuật tính Bước 3: Luyện tập thực hành Khi hình thành kiến thức mới trước tiên tôi yêu cầu học sinh thao tác trên đồ dùng trực quan. Bước này trong thực tế giảng dạy một số giáo viên thường xem nhẹ và hay bỏ qua vì sợ tiết học kéo dài. Tuy nhiên tôi lại hình thành kĩ và chắc ở bước này vì đây là hình thức rất quan trọng đối với học sinh lớp 2, bởi kiến thức mà các em chiếm lĩnh được chủ yếu từ đồ dùng trực quan đến tư duy trừu tượng. Từ thao tác trên đồ dùng trực quan sẽ giúp các em hình thành được kiến thức mới dễ dàng hơn. Qua việc lập các bảng cộng, trừ tôi hướng dẫn để các em nắm được “bản chất” của mỗi bảng chứ không phải chỉ thuộc bảng một cách máy móc, hay học thuộc vẹt. Ví như bảng cộng 9 chính là tách 1 ở số sau để có 9 + 1 = 10 rồi cộng nhẩm số tròn chục với số còn lại của số sau. Tương tự, với bảng cộng 8 cộng với một số ta cần tách số sau ra 2 đơn vị để gộp với 8 thành tròn chục.... Còn trong bảng trừ, tôi lại hướng dẫn kĩ cho học sinh cách tìm kết quả qua việc tháo bó chục để thay bằng que tính rời để bớt. Khi học sinh đã thao tác và tìm kết quả của bảng cộng, trừ thì tôi sẽ tổ chức cho các em học thuộc bảng chứ không phụ thuộc vào que tính nữa. Ví dụ: Toán (Tiết 14) Bài : 9 cộng với một số 9 + 5. Bước 1: Hình thành kiến thức mới. - Tôi yêu cầu học sinh lấy 9 que tính để trên mặt bàn sau đó yêu cầu học sinh lấy tiếp 5 que tính để ở hàng dưới và nêu bài toán. + Có 9 que tính, thêm 5 que tính. Hỏi có tất cả bao nhiêu que tính? Từ bài toán học sinh rút ra được phép tính 9 + 5. Học sinh thao tác trên que tính tìm kết quả của phép tính 9 + 5. Học sinh có thế thực hiện bằng nhiều cách khác nhau để tìm được kết quả 9 + 5 = 14 (Đếm thêm 5 que tính vào 9 que tính; đếm thêm 9 que tính vào 5 que tính; gộp 5 que tính với 9 que tính rồi đếm; tách 5 que tính thành 1 và 4, 9 với 1 là 10, 10 que tính với 4 que là 14 que.) Trong quá trình học sinh nêu cách thao tác giáo viên có thể khẳng định cho học sinh cách thao tác trên que tính nhanh và hợp lí nhất: Tách 5 que tính ở dưới thành 1 và 4, trong phần này cần phải giải thích rõ cho học sinh lí do vì sao lại tách 5 thành 1 và 4: Tách 1 ở 5 que tính vì lấy 9 gộp với 1 bằng 10 que tính, 10 sẽ gộp với 4 que tính còn lại bằng 14 que tính. Với cách này học sinh có thể dựa trên đồ dùng trực quan dễ dàng nhận biết được cách tách, cách gộp các số, tự phát hiện nội dung mới và chuẩn bị cơ sở cho việc lập bảng cộng có nhớ. Bước 2 : Lập bảng cộng 9 cộng với 1 số Học sinh tự thao tác để tìm kết quả các phép tính còn lại trong bảng. Khi học sinh hình thành được bảng cộng, tôi có thể hỏi lại học sinh cách tìm kết quả của các phép tính trong bảng cộng từ đó giúp học sinh củng cố chắc hơn về bản chất của bảng cộng. Bên cạnh đó khi thao tác trên que tính để hình thành được bảng cộng tôi cho học sinh nhận xét về các phép tính: Các số hạng thứ nhất đều là 9, cộng 9 với một số tách 1ở số sau để có 9 + 1 = 10 cộng với số còn lại của số sau rồi tính nhẩm. Qua đây giúp học sinh ghi nhớ : Muốn cộng nhẩm hai số ta làm tròn chục một số. Khi thêm vào số có hàng đơn vị lớn hơn bao nhiêu đơn vị để số đó tròn chục thì phải bớt đi số kia bấy nhiêu đơn vị. Với cách này học sinh khắc sâu được kiến thức, tránh lạm dụng đồ dùng trực quan, học sinh hiểu được bản chất, dễ tìm được kết quả, thuộc và nhớ lâu hơn. Bước 3: Tổ chức trò chơi hay những hoạt động ứng dụng để thuộc bảng và củng cố kiến thức cho học sinh. Khi hình thành được bảng cộng để giúp học sinh vận dụng tốt vào các bài luyện tập thực hành, tôi tổ chức cho học sinh học thuộc bằng nhiều hình thức khác nhau như: đọc nối tiếp từng phép tính, đọc đồng thanh theo tổ, nhóm và theo hình thức hỏi đáp. Ngoài ra tôi còn tổ chức cho các em chơi một số trò chơi để các em thuộc bảng nhanh mà còn tạo hứng thú trong học tập như chơi: Truyền điện (Một bạn nêu phép tính và sì điện vào bạn nào thì bạn ấy phải nêu kết quả, nếu sai bạn đó bị điện giật phải lặc cò cò). Qua các hình thức này sẽ giúp học sinh học thuộc nhanh hơn, vận dụng làm các bài tập tốt hơn. * Khi học sinh đã thuộc và nhớ bản chất của bảng cộng trừ thì việc vận dụng để thực hiện làm các phép tính cộng, trừ có nhớ trong phạm vi 100 sẽ dễ dàng hơn. Bởi các phép tính chính là sự vận dụng bảng cộng, trừ vào thực hành tính, vì vậy chương trình đã cấu tạo thành “bộ ba” các bài học. Ví như khi học bảng cộng dạng 9 cộng với một số : 9 + 5 thì các em sẽ học phép tính 29 + 5; 49+ 25 hoặc bảng trừ 11 trừ đi một số: 11 – 5 thì các em sẽ vận dụng làm phép tính 31 – 5; 51 - 15. Khi hình thành phép tính cũng tương tự như bảng cộng, trừ tôi cho học sinh thao tác trên que tính để tìm kết quả, qua thao tác trên que tính các em sẽ hiểu bản chất của phép tính. Sau khi tìm được kết quả trên đồ dùng trực quan, tôi mới hướng dẫn các em kĩ thuật tính. Ví dụ: Toán (Tiết 15) Bài : 29 + 5. Bước 1: Hình thành kiến thức mới. - Tôi Yêu cầu học sinh lấy 2 bó chục và 9 que tính rời để trên mặt bàn sau đó yêu cầu học sinh lấy tiếp 5 que tính để ở hàng dưới và nêu bài toán. + Có 29 que tính, thêm 5 que tính. Hỏi có tất cả bao nhiêu que tính? Từ bài toán này, học sinh sẽ rút ra được phép tính: 29 + 5 và tự thao tác trên que tính để tìm kết quả. Tôi khuyến khích học sinh tìm bằng nhiều cách khác nhau, khi các em nêu cách nào tôi đều khen học sinh, các em thường nêu các cách tìm như: 29 que tính đếm thêm 5 que nữa được 34 que tính; Tách 5 thành 1 và 4, lấy 9 que tính gộp 1 que thành 10 que tính (thay bằng một bó chục), 3 bó chục và 4 que tính rời là 34 que tính; Tách 9 thành 5 và 4, lấy 5 gộp với 5 bằng 10 que tính10 que tính (thay bằng một bó chục), 3 bó chục và 4 que tính rời là 34 que tính. Như vậy các em đều sử dụng cách tách và gộp như khi hình thành bảng cộng 9 cộng với một số: 9 + 5 Bước 2: Hướng dẫn kĩ thuật tính Đây là bước hướng dẫn để học sinh thoát khỏi đồ dùng trực quan để thực hành thao tác tính. Đây là phép tính cộng có nhớ, là dạng bài mới với học sinh nên tôi thường hướng dẫn kĩ các em cách đặt tính và cách tính, tôi liên tục lưu ý học sinh cộng phải có nhớ. Khi thực hiện tính chính là đang áp dụng bảng cộng 9 cộng với một số vào thực hành tính. Bước 3: Luyện tập thực hành Bước này, học sinh vận dụng kiến thức vào làm bài tập. Khi học sinh làm bài và chữa bài tôi cho các em nêu lại cách đặt tính và cách tính. Đồng thời lưu ý học sinh khi thực hiện phép cộng có nhớ. Ngoài việc hình thành chắc kiến thức mới thì tôi thường dành thời gian để kiểm tra bảng cộng, trừ và phép tính. Để kiểm tra nhanh việc thuộc và làm bài của học sinh như thế nào tôi thường cho các em làm bài trên bảng con, khi giáo viên đọc phép tính các em sẽ ghi nhanh kết quả ra bảng, hay đặt tính một
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_tim_thanh_phan_chua_biet_t.doc