SKKN Một số biện pháp nâng cao khả năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 2
Để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay phương hướng chung là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chính vì vậy phải nâng cao chất lượng đào tạo. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục Tiểu học là cấp học quan trọng nhất, được xem là cơ sở ban đầu đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông. Giáo dục Tiểu học giúp học sinh phát triển toàn diện về đặc điểm, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mặt khác giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hoàn thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên Trung học cơ sở.
Một trong những môn học đóng góp vai trò quan trọng trong trường Tiểu học là môn Tiếng Việt. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học vừa là bộ môn khoa học vừa là phương tiện để học sinh nắm chắc kiến thức. Các phân môn trong Tiếng Việt đều có mục đích, vai trò nhất định nhằm phát triển trí tuệ, thẩm mĩ cho người học. Dạy học Tập làm văn, đặc biệt dạy văn miêu tả cũng không nằm ngoài mục đích đó. Thông qua miêu tả người nghe, người đọc có thể hình dung được rõ nét vật được miêu tả. Mặt khác văn miêu tả làm cho tâm hồn và trí tuệ người đọc thêm phong phú, giúp cho ta có thể cảm nhận văn học và đời sống một cách tinh tế hơn, sâu sắc hơn.
Như chúng ta đã biết nhận thức của học sinh Tiểu học là nhận thức cảm tính, thường thiên về trực quan hình ảnh, các em thích quan sát, nhân xét sự vật, hiện tượng bằng con mắt thật của mình. Văn miêu tả sẽ giúp các em phát triển điều đó, các em có thể giao hoà với thiên nhiên, với thế giới xung quanh, các em sẽ thấy yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp hơn.
MỤC LỤC Nội dung Trang 1. MỞ ĐẦU. 1.1. Lí do chọn đề tài. 1 1.2. Mục đích nghiên cứu. 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu. 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 2 2. NỘI DUNG. 2.1. Cơ sở lí luận. 3 2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu. 3 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 4 2.3.1. Giáo viên thực hiện tự học, tự bồi dưỡng nghiêm túc. 4 2.3.2. Biện pháp giúp học sinh lớp 2 viết tốt văn miêu tả. 5 2.3.3. Xây dựng nền nếp học tập cho học sinh. 13 2.3.4. Nâng cao khả năng viết văn qua các phân môn khác trong Tiếng Việt 14 2.3.5. Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh trong công tác giáo dục. 15 2.3.6. Làm tốt công tác khen thưởng, khích lệ học sinh 16 2.3.7. Tham mưu cho nhà trường tổ chức các buổi hoạt động ngoại khóa, rèn kĩ năng sống 16 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. 16 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ. 3.1. Kết luận. 18 3.2. Kiến nghị. 18 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay phương hướng chung là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chính vì vậy phải nâng cao chất lượng đào tạo. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục Tiểu học là cấp học quan trọng nhất, được xem là cơ sở ban đầu đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông. Giáo dục Tiểu học giúp học sinh phát triển toàn diện về đặc điểm, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mặt khác giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hoàn thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên Trung học cơ sở. Một trong những môn học đóng góp vai trò quan trọng trong trường Tiểu học là môn Tiếng Việt. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học vừa là bộ môn khoa học vừa là phương tiện để học sinh nắm chắc kiến thức. Các phân môn trong Tiếng Việt đều có mục đích, vai trò nhất định nhằm phát triển trí tuệ, thẩm mĩ cho người học. Dạy học Tập làm văn, đặc biệt dạy văn miêu tả cũng không nằm ngoài mục đích đó. Thông qua miêu tả người nghe, người đọc có thể hình dung được rõ nét vật được miêu tả. Mặt khác văn miêu tả làm cho tâm hồn và trí tuệ người đọc thêm phong phú, giúp cho ta có thể cảm nhận văn học và đời sống một cách tinh tế hơn, sâu sắc hơn. Như chúng ta đã biết nhận thức của học sinh Tiểu học là nhận thức cảm tính, thường thiên về trực quan hình ảnh, các em thích quan sát, nhân xét sự vật, hiện tượng bằng con mắt thật của mình. Văn miêu tả sẽ giúp các em phát triển điều đó, các em có thể giao hoà với thiên nhiên, với thế giới xung quanh, các em sẽ thấy yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp hơn. Thông qua dạy miêu tả, việc giao tiếp hằng ngày của các em thuận lợi hơn, tăng khả năng sử dụng tiếng phổ thông và tạo điều kiện học tập tốt cho các môn học khác. Có lẽ vì lí do đó, văn miêu tả được đưa vào nhà trường ngay từ bậc Tiểu học. Từ lớp 2, tuy chưa có riêng các tiết học cụ thể thể văn miêu tả như các lớp 4, 5 nhưng trong các bài tập của tiết Tập làm văn thì khi dạy dạng bài quan sát tranh, trả lời câu hỏi; tả ngắn về một số sự vật có liên quan đến mỗi chủ điểm, các em đã bắt đầu làm quen với văn miêu tả. Khi dạy các dạng bài tập này, người giáo viên không thể xem nhẹ, coi đây giống như việc giải quyết các bài tập thông thường mà phải hướng dẫn cho các em theo một quy trình đầy đủ, đảm bảo, giúp các em có thói quen quan sát, biết rung cảm vào đối tượng miêu tả, biết sử dụng những từ ngữ có giá trị biểu cảm, tạo tiền đề để các em học tốt cách làm các bài văn miêu tả ở lớp trên. Cũng như một số giáo viên lớp 2 khác, tôi suy nghĩ nhiều về cách dạy viết văn miêu tả cho học sinh. Đặc biệt rèn cho học sinh không chỉ biết câu văn theo gợi ý mà còn phải viết hay. Làm thế nào để các em biết quan sát sự vật, hiện tượng một cách tinh tế, người đọc sẽ cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong mỗi bài văn? Cần sửa cho học sinh viết chuẩn các câu, không viết sai tiếng do yếu tố vùng miền, tuyệt đối không viết câu sai cú pháp, diễn đạt ý không trọn vẹn. Từ việc viết đúng các em sẽ biết viết hay, biết đưa những hình ảnh so sánh, nhân hoá vào miêu tả để bài văn sinh động hơn. Do thấy việc viết văn miêu tả của học sinh vẫn còn nhiều vướng mắc. Tôi nhận thấy việc giúp học sinh viết văn hay là việc làm hết sức cần thiết. Xuất phát từ những trăn trở này tôi đã đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra một số biện pháp rèn kỹ năng viết văn cho học sinh lớp 2 qua nghiên cứu đề tài: Một số biện pháp nâng cao khả năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 2. 1.2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài với mục đích đề xuất một số biện pháp thích hợp, có tính khả thi về việc giúp học sinh nâng cao khả năng viết văn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh để đáp ứng với mục tiêu cấp học. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của vấn đề là các biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 2 làm tốt văn miêu tả. Học sinh lớp 2B. Trường Tiểu học Thị trấn Cẩm Thủy 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu SGK, tài liệu tham khảo. - Nghiên cứu lí luận phương pháp dạy học. - Quan sát, phỏng vấn. - Khảo sát, điều tra thực tiễn. - Dạy thực nghiệm. - Phân tích, hệ thống hoá, tổng hợp và tổng kết kinh nghiệm. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận Trong trường Tiểu học, môn Tiếng Việt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với học sinh bởi nó là môn học cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết trong giao tiếp hằng ngày. Nó giúp các em phát triển toàn diện, hình thành ở các em những cơ sở của thế giới khoa học, góp phần rèn luyện trí thông minh, hình thành tình cảm, thói quen đạo đức tốt đẹp của con người mới. Môn Tiếng Việt có nhiệm vụ quan trọng đó là hình thành 4 kỹ năng: nghe - nói - đọc - viết. Phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội đủ 4 kỹ năng trên. Đối với học sinh lớp 2 thì đây là một phân môn khó. Bởi ở lứa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp, việc diễn đạt ngôn ngữ hạn chế. Bên cạnh đó còn có khó khăn khách quan như điều kiện hoàn cảnh sống của học sinh ở địa bàn dân cư. Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập nói chung, học phân môn Tập làm văn nói riêng. Như đã nói ở trên, dạy học về miêu tả ở lớp 2 chưa có tiết học riêng mà chỉ thông qua các bài tập và được chia làm hai phần rõ ràng: + Văn kể: Kể về người, kể về con vật + Văn tả: Tả cảnh, tả con vật, tả biển, tả cây cối, tả con người Vì vậy muốn tổ chức dạy tốt cho học sinh, giáo viên cần nắm vững bản chất của kĩ năng viết văn, hiểu rõ về quá trình dạy viết văn miêu tả. 2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu a. Học sinh Đầu năm học 2017 - 2018, tôi được phân công giảng dạy lớp 2B. Trường Tiểu học Thị trấn Cẩm Thủy. Lớp tôi giảng dạy có 36 em. Năng lực tiếp thu kiến thức của học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau. Qua nghiên cứu tôi thấy các em mắc lỗi viết văn là do: Học sinh mới từ lớp 1 lên có 1 số em kỹ năng đọc viết chưa thành thạo, vốn từ còn ít, chưa biết cách sử dụng dấu câu khi viết văn, diễn đạt câu văn chưa hoàn chỉnh. Bài văn của các em còn mang tính kể lể, liệt kê, khô khan, thiếu hình ảnh cảm xúc. Từ đó, bài làm của học sinh chỉ đơn thuần như theo kiểu viết đủ ý, dập khuôn, ý nghèo nàn, lời văn sơ lược, không thể hiện được cảm xúc riêng. Do đó, học sinh cảm thấy ngại khi học Tập làm văn, nhất là học dạng văn miêu tả dẫn đến chất lượng dạy học văn miêu tả ở lớp 2 còn chưa cao. Do đặc trưng vùng miền, ảnh hưởng phương ngữ, nghèo vốn từ, chưa biết sử dụng từ ngữ gợi tả, gợi cảm, viết câu sai ngữ pháp. Do sự chủ quan của học sinh trong việc viết văn, không có sự chuẩn bị trước cho tiết học Tập làm văn. Khi viết chỉ có câu trả lời, liệt kê không có từ ngữ để miêu tả, dùng từ lặp nhiều. Học sinh còn rụt rè, chưa mạnh dạn khi thực hiện nhiệm vụ học tập trong nhóm cũng như trước lớp, thể hiện rõ khi trả lời các câu hỏi của giáo viên. Qua thực tế khảo sát làm văn miêu tả đầu năm ở lớp 2B như sau: Sĩ số Kết quả Viết đoạn văn tốt Biết viết đoạn văn Chưa viết được đoạn văn SL TL SL TL SL TL 36 8 22,2 18 50 10 27,8 b. Gia đình Nhiều phụ huynh chưa thực sự chú ý đến việc học tập của con em mình. Phụ huynh chưa mua đầy đủ đồ dùng học tập, chưa xây dựng góc học tập, chưa thường xuyên nhắc nhở việc học bài ở nhà của học sinh. Đặc biệt các bậc phụ huynh chưa có thói quen hướng dẫn con chuẩn bị bài tập làm văn ở nhà trước khi học bài mới. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1. Giáo viên thực hiện tự học, tự bồi dưỡng nghiêm túc Vai trò của người thầy vô cùng quan trọng. Vì vậy giáo viên cần phải có kiến thức chuyên sâu, nắm vững phương pháp dạy học, cấu trúc chương trình. Bản thân giáo viên là người truyền đạt kiến thức cho học sinh, nếu người giáo viên có vốn kiến thức về dạy văn miêu tả còn mơ hồ, hời hợt là một điều khó để có thể giúp các em học tốt. Chính vì vậy, muốn học sinh học tốt thì bản thân người giáo viên phải luôn có tinh thần học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu, nắm chắc, chuyên sâu về việc dạy viết văn miêu tả, về phương pháp dạy học sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Giáo viên cần xác định đúng vị trí, mục tiêu của mỗi bài học. Mỗi giáo viên luôn tích lũy kinh nghiệm qua quá trình giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp để học hỏi và rút kinh nghiệm về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Người giáo viên phải luôn tăng cường sự linh hoạt sáng tạo trong giảng dạy, cụ thể trong việc xây dựng bài sao cho phù hợp sát với đối tượng học sinh của mình. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học: Thiết kế, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú phù hợp với mỗi bài tập, với trình độ của học sinh. Tạo điều kiện cho các em tham gia học tập một cách chủ động, sáng tạo. Giáo viên chuẩn bị và sử dụng tốt các đồ dùng dạy học trong khi quan sát đối tượng miêu tả như tranh ảnh, vật thật, không gian quan sát. Bản thân tôi đã quan tâm, chú ý việc đọc các tài liệu, sách báo. Tôi ghi lại những bài văn, đoạn văn hay vào nhật kí để làm tài liệu phục vụ giảng dạy. Ví dụ 1: Ảnh Bác Hồ lớp em được treo long trọng phía trên tấm bảng, dưới lá quốc kì nền đỏ sao vàng. Trong ảnh Bác có mái tóc bạc phơ và bộ râu hơi dài, trông như một ông tiên. Da Bác hồng hào, vầng trán Bác cao, lộ rõ vẻ thông minh. Càng nhìn ảnh Bác, em càng quyết tâm thực hiện năm điều Bác Hồ dạy để xứng đáng là cháu ngoan Bác Hồ. (Văn mẫu lớp 2) Ví dụ 2: Các chàng Dế choắt, người gầy gò và dài lêu nghêu như một gã nghiện thuốc phiện. Đã thanh niên rồi mà cánh chỉ ngắn ngủn đến nửa lưng, hở cả hai mạng sườn như người cởi trần mặc áo gi-lê. (Dế Mèn phiêu lưu kí – Tô Hoài) 2.3.2. Biện pháp giúp học sinh lớp 2 viết tốt văn miêu tả 2.3.2.1 Phân tích đề bài Cũng như tất cả các bài tập ở môn học khác, để làm được một bài văn hoàn chỉnh, bước đầu tiên các em phải làm là phân tích đề bài. Giáo viên hướng dẫn các em tìm hiểu, nắm bắt yêu cầu đề ra. Đọc kĩ đề sẽ giúp học sinh hiểu yêu cầu của đề bài, nắm được thể loại văn, xác định đúng đối tượng miêu tả và trọng tâm miêu tả. Thông qua việc làm này bài làm của các em sẽ làm bài tốt hơn, chắc chắn hơn. Mặt khác, việc giúp học sinh phân tích đề còn tạo cho các em có thói quen làm việc khoa học, có trình tự, tạo tiền đề để học sinh có thể học tốt hơn Tập làm văn ở các lớp trên. Thông thường đề bài Tập làm văn ở lớp 2 chỉ là một bài tập của tiết học. Đầu tiên tôi yêu cầu các em đọc kĩ yêu cầu bài tập, xác định các từ trọng tâm của đề bài, giáo viên gạch chân dưới các từ đó và hướng dẫn học sinh về thể loại, kiểu bài, nội dung miêu tả, trọng tâm miêu tả. Ví dụ 1: Tuần 15 – Bài tập 3 (TV2, tập 1- trang 126) Viết một đoạn văn ngắn khoảng 3 đến 4 câu kể về anh, chị, em ruột (hoặc anh, chị, em họ) của em. Giáo viên hướng dẫn các em xác định yêu cầu của đề bài như sau: + Em hãy đọc kĩ yêu cầu bài tập và cho biết đề bài yêu cầu gì? Viết một đoạn văn ngắn khoảng 3 đến 4 câu kể về anh, chị, em ruột (hoặc anh, chị, em họ) của em. + Hãy kể tên các anh, chị, em ruột hoặc anh, chị, em họ của em? (HS nêu) + Em sẽ chọn ai để tả? (HS nêu) + Kể về anh, vậy em kể về những điều gì? (Kể đôi nét về hình dáng, tính tình, những việc anh thường làm ) + Kể hình dáng của anh, em kể những gì?(Vóc dáng, tuổi, làn da, mái tóc, ) + Kể những việc làm ở nhà của anh, em định kể những gì? (Việc anh thường làm, sự nhường nhịn của anh đối với em ) + Diễn đạt tình cảm đối với anh, em sẽ nói như thế nào? (Em rất thương anh) Ví dụ 2: Tuần 21 – Bài tập 3a (TV2, tập 2- trang 30) Viết từ 2,3 câu về một loài chim mà em thích. - Tương tự như tiết trước, giáo viên cho HS đọc yêu cầu bài tập, cả lớp đọc thầm theo. Dùng một số câu hỏi để hướng dẫn học sinh nắm vững đề bài: + Đề bài yêu cầu gì? (Viết từ 2,3 câu về một loài chim mà em thích). + Hãy kể tên các loài chim mà em biết? (HS kể) + Em sẽ chọn loài chim gì để tả? (HS nêu) + Kể về loài chim đó, em sẽ kể những đặc điểm gì? (Kể đôi nét về hoạt động, thói quen của loài chim; hình dáng; tình cảm của em dành cho loài chim đó) 2.3.2.2 Hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng miêu tả và ghi sổ tay những điều quan sát *Quan sát đối tượng miêu tả (trực tiếp hoặc gián tiếp) Như đã nói, nhận thức của học sinh là nhận thức cảm tính, thiên về trực quan hình ảnh. Vì vậy khi làm bài văn miêu tả, việc các em quan sát trực tiếp sự vật rất quan trọng. Tôi luôn khích lệ học sinh quan sát bằng nhiều giác quan như thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác và nhìn sự vật bằng cách nhìn thẩm mĩ. Có như vậy, khi sự vật được đưa vào miêu tả sẽ đẹp, sẽ sinh động hơn. Miêu tả là phản ánh những hình ảnh có thực vào trong bài văn nhưng tôi luôn hướng các em phải có sự lựa chọn, biết chắt lọc, không nên kể liệt kê, kể khô khan, thấy cái gì viết cái đó mà phải tìm ra cái tinh tế, đặc biệt của sự vật để miêu tả. Trong khi học sinh quan sát, tôi hướng dẫn các em quan sát kĩ đối tượng, chú ý đến từng chi tiết nhỏ, hiểu và phát hiện các chi tiết đặc điểm của nó. Ví dụ 1: Tuần 16- Bài tập 2 ( TV2, tập 1 - trang 137) “Kể về một con vật nuôi trong nhà mà em biết”. Để tránh việc áp đặt cho học sinh, trước tiên tôi cho các em kể về các con vật nuôi mà em biết. Sau đó tôi hướng dẫn học sinh quan sát một con vật nuôi, tôi chuẩn bị sẵn một con mèo thật tôi đưa ra hệ thống câu hỏi gợi ý: + Con mèo màu gì? (Lông mèo màu mun/ đen ) + Dùng tay sờ vào bộ lông, em thấy thế nào? (Mềm, mượt/ rất thích) + Mắt mèo như thế nào? (Mắt tròn, xanh biếc/ trông như hai hòn bi) + Miệng mèo to hay nhỏ? (Miệng nhỏ, có ria mép...) + Bàn chân chú mèo như thế nào? (Bốn chân nhỏ có móng vuốt, bàn chân mềm, di chuyển nhẹ nhàng) + Lúc ngủ trông nó thế nào? (Nằm phơi nắng ngoài sân, vùi đầu vào trong, co mình lại, hai mắt lim dim....) Để kết quả quan sát được phong phú hơn tôi gợi ý học sinh tả cảnh vật xung quanh bằng một số câu hỏi gợi ý: + Cảnh vật xung quanh như thế nào? (Hàng cau thẳng tắp, đu dưa theo gió/ Những bông hoa hồng toả hương thơm ngào ngạt như vui đùa cùng ông mặt trời...) + Bầu trời như thế nào? (Nền trời xanh thẳm/ Ông mặt trời tỏa ánh nắng chói chang/ Chị gió múa reo) Ngoài việc quan sát trực tiếp sự vật thì tưởng tượng trong văn miêu tả cũng đóng vai trò rất quan trọng. Nhờ có tưởng tượng mà sự vật được miêu tả sẽ sinh động hơn, những hình ảnh, màu sắc, âm thanh hiện lên luôn sống động. Khi quan sát tôi đã hướng dẫn các em quan sát phải gắn liền với so sánh, liên tưởng, phải tìm ra những nét tương đồng, độc đáo của sự vật gắn liền với tình cảm của người tả. Ví dụ 2: Tuần 26 “Tả ngắn về biển” (Bài tập 2 -TV2, tập 2, trang 76). Về trực quan hình ảnh mà nói, biển là một sự vật trừu tượng, học sinh khó tưởng tượng đặc biệt là học sinh miền núi. Nếu đưa biển ra để so sánh với sông, suối, ao, hồ để hình thành khái niệm về biển cho các em cũng không rõ nét. Mặt khác, không thể đưa học sinh đi quan sát trực tiếp biển được. Do vậy, tôi dùng tranh ảnh vẽ cảnh biển để các em quan sát, tưởng tượng để miêu tả. Tôi đã hướng dẫn các em như sau: + Tranh vẽ cảnh biển vào lúc nào? (Tranh vẽ cảnh biển vào buổi sáng) + Em thấy mặt biển như thế nào? (Mặt biển rộng/ mênh mông) + Nước biển màu gì? (Biển khoác chiếc áo màu xanh/ nước biển xanh biếc tung bọt trắng ) + Trên mặt biển có những gì? (Sóng biển, những cánh buồm đang lướt sóng...) + Sóng như thế nào? (Sóng biển nhấp nhô/ Sóng biển tung bọt trắng xóa.) + Em đã nghe thấy tiếng sóng biển chưa? Tiếng sóng biển như thế nào? (Sóng biển vỗ rì rầm ...) Tả cảnh biển không chỉ tả những gì về biển mà tôi còn hướng dẫn học sinh tả những vạn vật xung quanh như: Mây, ông mặt trời, bãi cát, chim + Bầu trời như thế nào? (Bầu trời xanh thẳm/ Những đám mây trắng bồng bềnh trôi/ Từng đàn hải âu đang chao lượn...) Ví dụ 3: Tuần 28 “Tả ngắn về cây cối” (Bài tập 2,3 -TV2, tập 2, trang 90). Qua bài tập này, học sinh sẽ nắm được hình dáng, đặc điểm, mùi vị của quả măng cụt thông qua nội dung bài đọc. Nhưng nếu chỉ dựa vào bài đọc này thì học sinh chỉ hiểu trừu tượng, chưa sát thực tế vì nhiều học sinh chưa thấy và chưa được ăn quả măng cụt. Vào tiết học buổi chiều tôi đã chọn cho các em quan sát một loại quả thật, gần gũi với các em như quả cam. Sau đó tôi cũng đưa ra hệ thống câu hỏi để các em trả lời rồi viết thành đoạn văn. + Quả hình gì? (Quả cam hình tròn) + Quả to bằng chừng nào? (Quả to bằng nắm tay) + Quả màu gì? (Quả màu cam) + Cuống nó như thế nào? (Cuống nó nhỏ, màu xanh) + Ruột quả cam màu gì? (Ruột màu cam/ vàng nhạt...) + Các múi như thế nào? (Các múi xếp chồng lên nhau, phía ngoài có màng...) + Mùi vị quả cam ra sao? (Quả cam ăn ngọt lịm/ ngọt đậm... ) * Ghi sổ tay những điều quan sát Quan sát sự vật là một việc làm rất quan trọng nhưng để biết chắt lọc, ghi lại những điều đã quan sát một cách cụ thể là một việc làm khó. Do vậy sau khi gợi ý cho học sinh trả lời miệng lần lượt theo câu hỏi tôi cho học sinh ghi chép lại vào vở những điều quan sát được theo hệ thống câu hỏi một cách vắn tắt, ghi những ý quan trọng để phục vụ cho việc viết đoạn văn. Tôi nhắc nhở học sinh ghi theo hệ thống, logic, không ghi lộn xộn để khi viết đoạn văn các em sẽ sắp xếp các ý theo trình tự. - Việc làm đầu tiên, giáo viên cho học sinh đến điểm cần quan sát sự vật được miêu tả bằng tranh ảnh phóng to hoặc vật thật. - Thông qua hệ thống câu hỏi gợi ý, giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bằng các giác quan, hiểu và phát hiện các chi tiết đặc điểm của đối tượng. - Hướng dẫn học sinh quan sát phải có sự lựa chọn, không nên thấy cái gì là tả cái đó mà phải tìm ra nét đặc biệt, độc đáo chủ yếu của sự vật, hiện tượng, tránh liệt kê, kể khô khan. - Yêu cầu các em ghi chép tóm tắt những điều quan sát được. Ví dụ: Tuần 21 – Bài tập 3 (TV2, tập 2- trang 30) Viết từ 2,3 câu về một loài chim mà em thích. - Để học sinh có thể thực hiện tốt bài tập ở tiết này, tôi đã giao nhiệm vụ cho các em quan sát kĩ về hình dáng, màu sắc, thói quen, hoạt động của một loài chim và ghi chép lại điều đã quan sát bằng các câu hỏi gợi ý: + Em định tả loài chim gì? + Loài chim ấy có bộ lông màu gì? + Hai chân nó như thế nào? + Mỏ chim giống cái gì? + Tiếng hót của chim nghe thế nào? + Hằng ngày, chim thường làm gì? + Em có tình cảm như thế nào với loài chim đó? 2.3.2.3 Tăng khả năng sử dụng vốn từ và dùng các biện pháp nghệ thuật trong miêu tả * Hướng dẫn học sinh tích luỹ, mở rộng vốn từ Như ta đã biết vốn từ của học sinh lớp 2 rất ít thậm chí có thể nói là nghèo nàn. Do vậy khi làm văn các em chưa có và chưa biết lựa chọn từ ngữ để miêu tả. Xuất phát từ lí do đó tôi thấy việc mở rộng vốn từ cho học sinh là việc làm rất quan trọng và cần thiết, việc làm này cần được tiến hành thường xuyên và mang tính lâu dài. Có thể kết hợp với các phân môn khác trong môn Tiếng Việt để cung cấp nhiều vốn từ cho học sinh. Tôi đã áp dụng một vài cách khi dạy Tập làm văn
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_kha_nang_viet_van_mieu_ta_cho.doc