SKKN Kinh nghiệm vận dụng Phương pháp trò chơi học tập trong dạy học Luyện từ và câu lớp 2

SKKN Kinh nghiệm vận dụng Phương pháp trò chơi học tập trong dạy học Luyện từ và câu lớp 2

Trong trường tiểu học, cùng với những môn học khác ,Tiếng Việt là môn học có nhiều đổi mới cả về mục đích, nội dung và quan điểm dạy học. Tiếng Việt lớp 2 bao gồm sáu phân môn, mỗi phân môn có một vị trí đặc biệt quan trọng. Học tốt từng phân môn là học tốt Tiếng Việt. Tiếng Việt là môn học cơ sở để tiếp thu và lĩnh hội tri thức các môn học khác.

Mỗi phân môn Tiếng Việt có một sắc thái riêng. Phân môn Luyện từ và câu tuy bản chất là cung cấp vốn từ (từ ngữ) và học về câu (ngữ pháp), song trong sách giáo khoa không đưa ra “những kiến thức đóng khung có sẵn” mà là “hệ thống các bài tập”. Học sinh muốn lĩnh hội tri thức không thể khác là thực hành làm tất cả các bài tập trong sách giáo khoa. Vậy một giờ Luyện từ và câu (LTVC) ở lớp 2 được tiến hành ra sao ?

Thực tế cho thấy mỗi giáo viên đều tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhưng nhiều tiết dạy LTVC ở lớp 2 diễn ra vẫn còn trầm lắng và chưa thật sự hiệu quả. Tuy chưa phải học những kiến thức sâu rộng như thành phần chính, phụ của câu hoặc những khái niệm mang tính bản chất, phức tạp nhưng với hệ thống bài tập cũng dễ làm học sinh chán học nếu giáo viên không có sự thay đổi linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.

Đối với học sinh lớp 2, ở lứa tuổi này các em tâm lí các em còn hồn nhiên, sự tập trung chú ý chưa cao. Bên cạnh học là hoạt động chủ đạo thì nhu cầu chơi, nhu cầu được giao tiếp với bạn bè vẫn tồn tại và cần thoả mãn. Hiểu được điều đó, trong quá trình dạy học, người giáo viên biết lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lí của các em sẽ đem lại hiệu quả cao. Dạy học bằng phương pháp “ trò chơi học tập” là đưa học sinh đến với các hoạt động vui chơi, giải trí có nội dung gắn liền với bài học. Trò chơi trong học tập có tác dụng giúp học sinh thay đổi động hình, chống mệt mỏi, tăng cường khả năng thực hành kiến thức của bài học, phát huy hứng thú, tạo thói quen độc lập, chủ động và sự sáng tạo của học sinh

Xuất phát từ lý do trên tôi đã tìm tòi, nghiên cứu, đưa một số trò chơi vào trong bài giảng của mình, nhằm gây hứng thú cho học sinh lớp 2 khi học phân môn LTVC và đúc kết thành kinh nghiệm giảng dạy của mình “ Kinh nghiệm vận dụng Phương pháp trò chơi học tập trong dạy học Luyện từ và câu lớp 2”

 

doc 22 trang thuychi01 48979
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Kinh nghiệm vận dụng Phương pháp trò chơi học tập trong dạy học Luyện từ và câu lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
I. Lý do chọn đề tài:
Trong trường tiểu học, cùng với những môn học khác ,Tiếng Việt là môn học có nhiều đổi mới cả về mục đích, nội dung và quan điểm dạy học. Tiếng Việt lớp 2 bao gồm sáu phân môn, mỗi phân môn có một vị trí đặc biệt quan trọng. Học tốt từng phân môn là học tốt Tiếng Việt. Tiếng Việt là môn học cơ sở để tiếp thu và lĩnh hội tri thức các môn học khác.
Mỗi phân môn Tiếng Việt có một sắc thái riêng. Phân môn Luyện từ và câu tuy bản chất là cung cấp vốn từ (từ ngữ) và học về câu (ngữ pháp), song trong sách giáo khoa không đưa ra “những kiến thức đóng khung có sẵn” mà là “hệ thống các bài tập”. Học sinh muốn lĩnh hội tri thức không thể khác là thực hành làm tất cả các bài tập trong sách giáo khoa. Vậy một giờ Luyện từ và câu (LTVC) ở lớp 2 được tiến hành ra sao ?
Thực tế cho thấy mỗi giáo viên đều tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhưng nhiều tiết dạy LTVC ở lớp 2 diễn ra vẫn còn trầm lắng và chưa thật sự hiệu quả. Tuy chưa phải học những kiến thức sâu rộng như thành phần chính, phụ của câu hoặc những khái niệm mang tính bản chất, phức tạp nhưng với hệ thống bài tập cũng dễ làm học sinh chán học nếu giáo viên không có sự thay đổi linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.
Đối với học sinh lớp 2, ở lứa tuổi này các em tâm lí các em còn hồn nhiên, sự tập trung chú ý chưa cao. Bên cạnh học là hoạt động chủ đạo thì nhu cầu chơi, nhu cầu được giao tiếp với bạn bè vẫn tồn tại và cần thoả mãn. Hiểu được điều đó, trong quá trình dạy học, người giáo viên biết lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lí của các em sẽ đem lại hiệu quả cao. Dạy học bằng phương pháp “ trò chơi học tập” là đưa học sinh đến với các hoạt động vui chơi, giải trí có nội dung gắn liền với bài học. Trò chơi trong học tập có tác dụng giúp học sinh thay đổi động hình, chống mệt mỏi, tăng cường khả năng thực hành kiến thức của bài học, phát huy hứng thú, tạo thói quen độc lập, chủ động và sự sáng tạo của học sinh
Xuất phát từ lý do trên tôi đã tìm tòi, nghiên cứu, đưa một số trò chơi vào trong bài giảng của mình, nhằm gây hứng thú cho học sinh lớp 2 khi học phân môn LTVC và đúc kết thành kinh nghiệm giảng dạy của mình “ Kinh nghiệm vận dụng Phương pháp trò chơi học tập trong dạy học Luyện từ và câu lớp 2”
II. Mục đích nghiên cứu: 
- Nghiên cứu nội dung chương trình phân môn luyện từ và câu để nắm vững nội dung chương trình.
- Hệ thống thành các dạng bài, từ đó lựa chọn một số trò chơi phù hợp vào giảng dạy, nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh, nâng cao chất lượng học tập phân môn LTVC nói riêng, môn Tiếng Việt nói chung từ đó giúp học sinh có khả năng sử dụng Tiếng Việt như một công cụ giao tiếp, học tập. 
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu thực tế giảng dạy và học tập LTVC khối lớp 2, 3 trường tiểu học Thị Trấn Nga Sơn.
- Nghiên cứu nội dung chương trình SGK, tài liệu về các trò chơi, cách vận dụng các trò chơi trong dạy học LTVC lớp 2. 
- Học sinh lớp 2C trường Tiểu học Thị Trấn Nga Sơn.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Phương pháp nghiên cứu lí luận:
- Đọc các tài liệu liên quan đến đề tài: Sách hướng dẫn giảng dạy TV2, Tạp chí giáo dục Tiểu học, trò chơi học tập Tiếng Việt 2. 
- Nghiên cứu chương trình TV lớp 2, tài liệu hướng dẫn về đổi mới nội dung - phương pháp dạy học ở Tiểu học, chương trình bồi dưỡng thường xuyên.
- Tài liệu hướng dẫn trò chơi Tiếng Việt lớp 2.
- Nghiên cứu tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng, nghị quyết số 29 của TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục. 
2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Dự giờ đồng nghiệp .
- Sinh hoạt chuyên môn
- Khảo sát chất lượng học sinh.
3. Phương pháp thực nghiệm:
- Dự giờ đồng nghiệp.
- Tiến hành dạy thực nghiệm, đối chứng, trao đổi rút kinh nghiệm, đánh giá của việc vận dụng đổi mới nội dung - phương pháp dạy học vào lớp 2C trường Tiểu học Thị Trấn 
- Quan sát việc học tập LTVC của học sinh.
- Thống kê chất lượng thông qua bài khảo sát.
PHẦN B : NỘI DUNG
 I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC DẠY VÀ HỌC PHÂN MÔN LTVC
 1. Vị trí, vai trò của phân môn luyện từ và câu
	Ở lớp 2, phân môn luyện từ và câu là một môn học giữ vị trí chủ đạo trong chương trình Tiếng Việt mới của lớp 2. Ngay từ đầu của hoạt động học tập ở trường, học sinh đã được làm quen với lí thuyết của từ và câu. Sau đó, kiến thức được mở rộng thêm và nâng cao dần để phục vụ cho nhu cầu ngày một cao trong cuộc sống của các em cũng như trong lao động, học tập và giao tiếp.
 Luyện từ và câu là môn học nền tảng để học sinh học các môn học khác trong tất cả các cấp học sau, cũng như trong lao động và giao tiếp trong cuộc sống, bởi nó giúp học sinh có kĩ năng nói đúng. Từ đó, sử dụng Tiếng Việt một cách thành thạo làm công cụ tư duy để học tập giao tiếp và lao động.
 2. Trò chơi học tập:
 Trò chơi học tập là hình thức học tập thông qua trò chơi. Trò chơi học tập không chỉ nhằm chơi vui giải trí mà còn nhằm góp phần củng cố tri thức, kỹ năng học tập của các em. Với các đặc điểm riêng, trò chơi mở ra cho học sinh tiểu học một khả năng phát triển lớn. Các em được tiếp cận hoàn cảnh chơi, nhiệm vụ chơi, hoạt động chơi  từ đó các em lĩnh hội các tri thức sống động về thực tế cuộc sống xung quanh và tri thức khoa học. Bởi “chơi” là được sống hết mình và khác với hoạt động học. Các thành tích học tập cơ bản phụ thuộc vào bản thân các em còn sự thắng thua trong trò chơi mang tính ngẫu nhiên. Các em tham gia chơi với hy vọng chiến thắng và để khẳng định chính mình. Bên cạnh đó trò chơi tạo cho bản thân các em sự thư giãn thoải mái, vui vẻ.
 Áp dụng phương pháp trò chơi vào dạy phân môn LTVC là đưa học sinh vào hoạt
 động vận dụng. Học sinh phải thể hiện chủ động, sáng tạo để phát hiện điều cần học. Nó làm bớt đi sự căng thẳng khô khan không còn sự tẻ nhạt; đem đến sự sôi nổi, ham mê, hấp dẫn, say sưa tìm hiểu khám phá và lĩnh hội tri thức trong mỗi giờ học. Thành công của việc sử dụng trò chơi trong học tập là góp phần đạt được mục tiêu giờ học. Bởi vậy để đảm bảo cho sự thành công việc sử dụng trò chơi thì nội dung trò chơi phải gắn với mục tiêu bài học, luật chơi rõ ràng đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, điều kiện - phương tiện tổ chức trò chơi phong phú, chơi đúng lúc, đúng chỗ, đồng thời phải kích thích sự thi đua giành phần thắng giữa các đội tham gia. 
 II. THỰC TRẠNG DẠY HỌC CỦA PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 2:
 1. Thực trạng của giáo viên.
 Tiểu học Thị Trấn là một trường luôn dẫn đầu về phong trào dạy tốt trong khối tiểu học của Huyện Nga Sơn. Trường có đội ngũ giáo viên vững về chuyên môn, nghiệp vụ, gần 100% giáo viên của nhà trường có trình độ trên chuẩn. Trong các kỳ thi giáo viên giỏi cấp huyện, năm nào nhà trường cũng có giáo viên đạt thủ khoa, có rất nhiều đồng chí có năng lực vững vàng, phương pháp dạy học linh hoạt, đã lôi cuốn được học sinh vào học tập.
 Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy, qua thao giảng, kiến tập của giáo viên trong trường, đặc biệt là giáo viên khối 2(qua một số tiết LTVC) bản thân tôi và đồng nghiệp vẫn còn một số tồn tại:
 - Một số tiết dạy chưa có sự đầu tư : đổi mới PPDH chưa triệt để, các hình thức tổ chức hoạt động trong giờ học Luyện từ và câu còn đơn điệu, nghèo nàn, phương tiện, đồ dùng dạy học chuẩn bị chưa chu đáo. 
 - Nhiều tiết dạy LTVC giáo viên đã sử dụng phương pháp “trò chơi học tập”, tuy nhiên chủ yếu chỉ ở những tiết thao giảng, dự giờ. Còn những tiết dạy hàng ngày trên lớp giáo viên còn ngại tổ chức trò chơi cho học sinh. Việc sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học chưa thực sự được chú trọng và chưa mang lại hiệu quả: tổ chức qua loa, chưa bài bản, chưa xác định rõ mục tiêu và tác dụng của trò chơi, lớp học ồn... dẫn đến giờ học chưa hiệu quả, chưa lôi cuốn được học sinh tham gia vào hoạt động học tập. 
 - Tài liệu nói về hình thức tổ chức trò chơi học tập còn hạn chế, một số tài liệu có đưa ra các hình thức trò chơi phong phú song chưa sát thực, không mang tính khả thi.
 2. Thực trạng của học sinh.
 Trường tiểu học Thị Trấn là một trong những trường chuẩn quốc gia mức độ 2 tốp đầu tiên của Tỉnh Thanh Hóa. Học sinh Trường Tiểu học Thị Trấn vốn có truyền thống hiếu học và có bề dày thành tích về học tập. Học sinh chủ yếu là con gia đình cán bộ, được các bậc phụ huynh quan tâm, tạo điều kiện về vật chất, tinh thần cho các em học tập tốt. Vì vậy đại đa số học sinh của nhà trường tự tin, giao tiếp tốt, chất lượng học tập khả quan. 
 Bên cạnh những học sinh chăm học, vẫn còn một số em đang còn rất thờ ơ với việc học Tiếng Việt (vì có phân môn Luyện từ và câu ,Tập Làm Văn). Đây là một phân môn mới lạ với các em từ lớp một lên, có một số em bố mẹ cho đặt câu, viết đoạn ở nhà là khóc( Phụ huynh em Nguyễn Trí, Tấn Dũng, Lê Vy phản ánh lại). Vì vậy, kĩ năng giao tiếp, vốn từ ngữ, kiến thức về câu của các em rất hạn chế, điều này ảnh hưởng lớn đến chất lượng học tập của các em nói chung.
 Một số phụ huynh chưa có phương pháp để hỗ trợ cho các em tiếp thu, củng cố kiến thức môn Tiếng Việt. Vì vậy nói đến học Tiếng Việt là các em thấy sợ, lo lắng, không muốn học, từ đó chất lượng học môn Tiếng Việt của học sinh không cao.
 3. Khảo sát hứng thú của học sinh khi học phân môn luyện từ và câu.
 Sau 2 tuần nhận lớp và giảng dạy trực tiếp tại lớp 2C hai tiết LTVC, tôi nhận thấy rằng, số học sinh nắm được bài, tích cực xây dựng bài và hoàn thành bài tập còn hạn chế. Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh và thu được kết quả sau: 
 Kếtquả 
Số bài
Thích học và làm bài đầy đủ.
Bình thường
Không thích
SL
%
SL
%
SL
%
33
8
24,2
19
57,5
6
18,3
 Với thực trạng trên, cùng với những băn khoăn, trăn trở của mình tôi mạnh dạn tìm hiểu nội dung chương trình, tài liệu hướng dẫn, thực tế kinh nghiệm giảng dạy trên lớp, trao đổi cùng đồng nghiệp để lựa chọn một số trò chơi cho học sinh phù hợp với từng kiểu bài, từng tiết dạy, từng đối tượng học sinh trong lớp nhằm tạo hứng thú học tập cho các em khi học LTVC, từ đó nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt nói riêng và chất lượng giáo dục nói riêng.
 III. CÁC BIỆN PHÁP:
 Việc áp dụng phương pháp: “trò chơi học tập” khi dạy LTVC chính là việc giáo viên khơi dậy hứng thú, niềm say mê học tập, tạo không khí sôi nổi cho một giờ học. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải xác định rõ yêu cầu đạt của tiết học, mục tiêu của trò chơi học tập là gì? Trên cơ sở đó cần lựa chọn trò chơi gì? đưa trò chơi vào lúc nào? bài tập nào? Cách tổ chức ra sao? Nếu giáo viên không tổ chức tốt thì trò chơi không gặt hái được kết quả như mong muốn mà còn bị phản tác dụng gây sự mất trật tự trong giờ học. Chính vì vậy việc giảng dạy một tiết LTVC ở lớp 2 được tiến hành ra sao để học sinh chủ động, hào hứng lĩnh hội tri thức, đó là điều tôi đã nghiên cứu, nhận biết và tìm hiểu được một số kinh nghiệm về vận dụng một số trò chơi vào tiết dạy LTVC ở lớp 2. Đó là những trò chơi gì? được vận dụng vào từng bài dạy như thế nào cho hiệu quả? Giáo viên cần nghiên cứu kĩ chương trình và phân ra từ dạng bài
 cụ thể, rồi đưa các trò chơi phù hợp vào từng bài : 
 1. Giáo viên cần nghiên cứu kĩ chương trình, phân ra các dạng bài trong phân môn Luyện từ và câu:
 Việc nắm vững nội dung, chương trình giúp giáo viên có cái nhìn tổng quát và xác định rõ được mục tiêu cần đạt của môn học. Khác với SGK chương trình cũ, LTVC lớp 2 chương trình mới không có bài học lí thuyết riêng. Các kiến thức từ ngữ và ngữ pháp được thể hiện qua thực hành. Thông quan hệ thống bài tập, giáo viên giúp học sinh hệ thống, khái quát hóa kiến thức trong từng bài. Vì vậy ngay từ đầu năm học, tôi đã nghiên cứu kĩ chương trình phân môn LTVC lớp 2 và phân chia thành các dạng bài cụ thể như sau: 
 a. Dạng bài lí thuyết về từ.
 Ở lớp 2, có những bài dạy về lí thuyết từ như :Từ và câu, Từ ngữ chỉ sự vật (Danh từ), Từ ngữ chỉ hoạt động, trạng thái (Động từ), Từ ngữ chỉ đặc điểm, tình cảm (Tính từ) . Những bài học này là tổng kết những kiến thức được rút ra từ những bài tập học sinh được làm. Khác với chương trình lớp 2 cũ, chương trình lớp 2 mới học sinh được làm bài tập sau đó mới rút ra kiến thức trọng tâm của bài.
 Dạng bài Lí thuyết lớp 2 gồm các tiết: Tuần 1, 2, 3, 4, 7, 8, 15, 16. 
 b. Dạng bài mở rộng vốn từ :
 Cơ sở của việc hệ thống hóa vốn từ là sự tồn tại của từ trong ý thức con người, từ tồn tại trong đầu óc con người không phải là những yếu tố rời rạc mà là một hệ thống. Chúng được sắp xếp theo một hệ thống liên tưởng nhất định giữa các từ này với từ khác có một nét gì chung khiến ta nhớ đến từ kia nên từ được tích lũy nhanh chóng hơn. Từ mới có thể được sử dụng trong lời nói và khi sử dụng nhờ hệ thống liên tưởng, học sinh nhanh chóng huy động lựa chọn từ phù hợp với yêu cầu giao tiếp.
 Với mục đích tích lũy nhanh chóng vốn từ và tạo điều kiện để sử dụng từ một cách dễ dàng, giáo viên đưa ra những từ theo một hệ thống và đồng thời xây dựng một bài tập hệ thống hóa vốn từ trong dạy từ. Ở lớp 2, các em được học từ theo chủ đề, cứ 2 tuần các em được học một chủ đề: từ ngữ về các môn học, về thời tiết,về cây cối, chim chóc...
 LTVC lớp 2 gồm các tiết:6 , 7, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 28, 29, 30, 31, 33, 34.
 c. Dạng bài tích cực hóa vốn từ:
 Dạng bài tập này không chỉ giúp học sinh nắm được nghĩa mà còn làm rõ khả năng kết hợp từ. Những bài tập được sử dụng ở lớp 2 là bài tập điền từ, bài tập đặt câu, bài tập tạo từ.
 Chương trình LTVC lớp 2 gồm các tiết: Tuần 10,11,13,12,14,32,34.
 d. Dạng bài khái niệm câu:
 Quá trình hình thành khái niệm câu có thể chỉ ra theo các bước sau :
 Đưa ngữ liệu và phân tích ngữ liệu với mục đích làm rõ những dấu hiệu bản chất của khái niệm câu.
 Khái quát hóa dấu hiệu thiết lập quan hệ giữa các dấu hiệu của khái niệm
 đưa thuật ngữ (học sinh nắm thao tác so sánh và tổng hợp)
 Để chuẩn bị dạy khái niệm câu giáo viên cần đặt trong hệ thống chương trình để thấy rõ vị trí của nó đồng thời phải nắm chắc nội dung khái niệm. Đây
 chính là nội dung mà giáo viên cần đưa đến cho học sinh.
 Chương trình LTVC lớp 2 gồm các tiết: Tuần 3, 6, 13,14,15,16
 2 . Xác định mục tiêu của trò chơi, xây dựng và thiết kế trò chơi: 
 Trong thực tế , khi dạy LTVC nhiều giáo viên đã sử dụng trò chơi học tập. Tuy nhiên, nhiều giáo viên chưa xác định rõ được mục tiêu của trò chơi, chưa khai thác hết được tầm quan trọng của trò chơi học tập.Việc sử dụng trò chơi học tập chủ yếu ở khâu củng cố bài với mục đích thay đổi không khí lớp học, củng cố lại kiến thức bài học. Vì vậy giáo viên chưa quan tâm đến cách xây dựng và thiết kế trò chơi nên hiệu quả của trò chơi học tập chưa cao.
 Ngoài việc củng cố kiến thức, trò chơi học tập còn có thể dùng để hình thành kiến thức, kỹ năng mới, tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học. Và để trò chơi học tập thực sự mang ý nghĩa “ chơi mà học” khi sử dụng trò chơi học tập người giáo viên cần xác định rõ mục tiêu của trò chơi:
 - Sử dụng trò chơi học tập để hình thành kiến thức, kỹ năng mới hoặc củng cố kiến thức, kỹ năng đã học.
 - Phát triển tư duy, rèn các kĩ năng: giao tiếp, xử lí tình huống; ứng phó, thao tác, phản xạ nhanh.
 - Giáo dục tinh thần đoàn kết, hợp tác, chia sẻ; tính trung thực trong thi đua, học tập, tạo môi trường và không khí học tập vui tươi, thân thiện.
 Bên cạnh đó, việc xây dựng và thiết kế trò chơi học tập phải đảm bảo cấu trúc và được tiến hành theo đúng quy trình các bước:
 Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên, mục đích của trò chơi.
 Bước 2: Hướng dẫn chơi. 
 Bước này bao gồm những việc làm sau:
 - Tổ chức người tham gia trò chơi: Số người tham gia, số đội tham gia (mấy đội chơi), quản trò, trọng tài.
 - Các dụng cụ dùng để chơi (giấy khổ to, quân bài, thẻ từ, cờ)
 - Cách chơi: Từng việc làm cụ thể của người chơi hoặc đội chơi, thời gian chơi, những điều người chơi không được làm
 - Cách xác nhận kết quả và cách tính điểm chơi, cách xếp giải của cuộc chơi. (nếu có)
 Bước 3: Làm mẫu.
 Bước 4: Thực hiện trò chơi.
 Bước 4: Đánh giá - Nhận xét sau cuộc chơi.
 Bước này bao gồm những việc làm sau:
 - Giáo viên hoặc trọng tài là HS nhận xét về thái độ tham gia trò chơi của từng đội, những việc làm chưa tốt của các đội để rút kinh nghiệm.
 + Trọng tài công bố kết quả chơi của từng đội, cá nhân và trao phần thưởng cho đội đoạt giải.
 + Một số học sinh nêu kiến thức, kỹ năng trong bài học mà trò chơi đã thể hiện.
 Việc nắm vững cách xây dựng, quy trình và các bước tổ chức trò chơi sẽ giúp giáo viên không tổ chức qua loa, ngẫu hứng , trò chơi không đảm bảo mục tiêu, học sinh nắm rõ luật chơi, khi thực hiện thì không lúng túng, không mất trật tự 
 3. Lựa chọn các trò chơi:
 Việc lựa chọn các trò chơi học tập trong môn Luyện từ và câu phải đáp ứng được 
mục tiêu của bài học. Các trò chơi phải đặt ra cho học sinh các nhiệm vụ học tập tương ứng với nội dung dạy học. Mỗi trò chơi cần có một vị trí đóng góp cụ thể trong tiến trình thực hiện mục đích dạy học. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 2, hệ thống các trò chơi phải được lựa chọn sao cho đa dạng về chủ đề, phong phú về cách chơi. Dựa vào hình thức, cách chơi và luật chơi của trò chơi có thể thay thế các trò chơi một cách linh hoạt dựa theo nội dung từng bài dạy mà giáo viên tổ chức trò chơi phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Để từ đó các em cảm thấy : “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.Vì vậy khi lựa chọn trò chơi, giáo viên cần lưu ý:
 - Lựa chọn trò chơi phải phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, vừa sức với học sinh.
 - Lựa chọn thời điểm thích hợp khi tổ chức các trò chơi học tập cho học sinh lớp.
 - Các thời điểm có thể tổ chức trò chơi khi dạy phân môn Luyện từ và câu là:
 + Hình thành kiến thức, kỹ năng mới .
 + Củng cố kiến thức, kỹ năng đã học và mở rộng vốn từ cho các em.
 4. Vận dụng các trò chơi vào trong từng dạng bài cụ thể:
 Mỗi một dạng bài LTVC có mục tiêu riêng và cách khai thác riêng. Mỗi trò chơi học tập có mục đích, vai trò và hiệu quả nhất định. Vì vậy, giáo viên cần căn cứ vào từng dạng bài cụ thể để lựa chọn trò chơi chủ đạo: 
 a. Dạng bài lí thuyết về từ.
 Đối với dạng bài lí thuyết về từ, thông thường giáo viên cho học sinh quan sát tranh để nêu từ hoặc thảo luận nhóm (nhóm đôi, hoặc nhóm 4) tìm từ và viết vào bảng nhóm. Sau đó cho đại diện các nhóm trưng kết quả và đọc lên những từ đã tìm được, nhóm khác nhận xét và bổ sung thêm từ còn thiếu. Với cách dạy này, tôi thấy hầu như tất cả học sinh đã tìm được đúng từ theo yêu cầu của bài tập. Song vẫn còn một số học sinh trong nhóm không chịu thảo luận cùng bạn mà chỉ chờ bạn nêu kết quả, cô giáo chữa bài rồi viết vào vở.Vậy làm thế nào để tất cả học sinh đều cùng nhau tham gia vào hoạt động học tập?
 Tôi đã nghiên cứu kỹ nội dung bài, lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức 
dạy học phù hợp với đối tượng học sinh của lớp, với dạng bài này tôi đã áp dụng trò chơi: “Ghép nhanh tên cho sự vật”, “ tìm nhanh các từ cùng chủ đề” .....
Trò chơi 1: Ghép nhanh tên cho sự vật:
 * Ví dụ: Khi dạy bài 1, tuần 3- Tr 26
 - Chuẩn bị tranh ảnh ( đã tô màu) theo nội dung bài tập 1 ba bộ.
 - Luật chơi: Giáo viên gắn 3 tranh đã chuẩn bị lên bảng và lớp đếm một, hai, ba thì em thứ nhất của ba nhóm lên viết từ chỉ sự vật vào tranh ảnh phù hợp, ( Nếu em nào viết sai thì những bạn sau không được sửa lại), sau đó tiếp đến học sinh thứ hai và đến khi hết thời gian quy định.
 - Cách chơi: Cho ba nhóm, mỗi nhóm có 4 học sinh tham gia chơi tiếp sức, thi đua viết từ chỉ sự vật vào các tranh ảnh, (với thời gian 2 phút), ban giám khảo là số học sinh còn lại và cô giáo.
 - Đánh giá trò chơi: Nhóm trưởng của một nhóm đọc kết quả từng hình theo số thứ tự và từ chỉ sự vật của hình đó như: Hình 1 – bộ đội; hình 2- công nhân; hình 3 – ô tô; hình 4 – máy bay; hình 5 – voi; hình 6 – trâu; hình 7 – cây dừa; hình 8 – cây mía, ban giám khảo nhận xét ghi đúng hoặc sai và thời gian của từng nhóm để bình chọn nhóm nhất, nhì, ba.
 Kết quả của nhóm 1 và nhóm 2 các em đều viết đúng được 8 từ vào 8 tranh ảnh phù hợp của bài tập 1. Riêng nhóm thứ ba, các tìm từ chỉ sự vật ở hình 2 là nông dân, ban giám khảo đánh giá là sai, tôi đã hướng dẫn học nhận xét: Người nông dân ngày nay cũng đã sử dụng máy móc trong sản xuất rất nhiều để tăng năng xuất và tiết kiệm được t

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_van_dung_phuong_phap_tro_choi_hoc_tap_trong.doc