Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy môn Công nghệ 7

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đối với học sinh. Các em phải được rèn luyện ở mức độ cao hơn, khả năng tự học, tự nhận thức và hành động vì thế ngày càng được coi trọng.
Muốn đạt được điều đó GV cần áp dụng nhiều phương pháp dạy - học trong đó có phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan. Cần phải tiếp thu những điểm cơ bản có tính nguyên tắc của cách dạy truyền thống song phải luôn luôn đổi mới, làm một cuộc cách mạng trong người dạy và người học để khắc phục sự bảo thủ, thụ động như: Giáo viên chỉ chuẩn bị giảng những điều học sinh dễ nhớ, học sinh chỉ chú trọng ghi lời giảng của giáo viên và kiến thức trong sách để trình bày lại khi kiểm tra.
Trong vài năm gần đây, bộ môn Công nghệ trong trường THCS đó được chú trọng hơn trước. Đã được cung cấp thêm các trang thiết bị và tài liệu tham khảo phục vụ cho việc dạy và học.
Tuy nhiên qua vài năm giảng dạy bộ môn này tôi thấy rằng việc dạy học môn Công nghệ hiện nay vẫn còn giặp rất nhiều khó khăn, nhưng trở ngại nhất là việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc quan sát, sử dụng đồ dùng trực quan. Thực trạng của vấn đề này có thể giải thích ở những nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất là vẫn tồn tại một quan niệm cố hữu cho rằng môn Công nghệ là những môn phụ.
Thứ hai là về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập tuy đã được đầu tư nhưng vẫn còn thiếu so với yêu cầu giáo dục hiện nay. Tình trạng dạy chay vẫn còn khá phổ biến. Trong suốt quá trình học bộ môn Công nghệ lớp7 và cả thầy và trò chưa bao giờ có điều kiện tham quan mô hình trồng cây ăn quả điển hình, hoặc vườn cây nhân giống vì không có kinh phí. Điều đó làm cho vốn kiến thức kiến thức của các em chỉ bó gọn trong sách vở và bài giảng.
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TAM DƯƠNG TRƯỜNG THCS VÂN HỘI Mã sáng kiến: BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên sáng kiến: PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG GIẢNG DẠY MÔN CÔNG NGHỆ 7 Tác giả sáng kiến: Bùi Thị Duyên Địa chỉ tác sáng kiến: Trường THCS Vân Hội Số điện thoại: 0969009120. Email: buithiduyen.c2vanhoi@vinhphuc.edu.vn Vĩnh phúc, Năm học 2016- 2017 BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu: Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, cuộc cách mạng khoa học công nghệ như một luồng gió mới thổi vào và làm lay động nhiều lĩnh vực trong cuộc sống. Hơn bao giờ hết con người đang đứng trước những diễn biến thay đổi to lớn, phức tạp về lịch sử xã hội và khoa học - kỹ thuật. Nhiều mối quan hệ mâu thuẫn của thời đại cần được giải quyết trong đó có mâu thuẫn yêu cầu ngành GD - ĐT nói chung và người thầy chúng ta nói riêng phải giải quyết ngay, đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sức ép của khối lượng tri thức ngày càng tăng và sự tiếp nhận của con người có giới hạn, bởi vì sự nhận thức của con người nói chung là tuyệt đối và không có giới hạn song sự thu nhận, hiểu biết kiến thức của mỗi con người đều hữu hạn và tương đối. Như chúng ta thấy, con đường nhận thức ngắn nhất sẽ là con đường “Đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” và phương tiện hết sức cần thiết để đi được trên “Con đường” nhận thức này chính là các “Dụng cụ trực quan”. Đặc biệt trong hướng dạy học mới hiện nay, “Hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh”, yêu cầu người giáo viên phải biết tạo điều kiện cho học sinh tự tìm tòi, khai thác kiến thức, biết điều khiển hoạt động nhận thức của mình bằng các “Đồ dùng trực quan”, chính vì thế mà “Đồ dùng trực quan” trở thành một nhân tố quan trọng trong hoạt động dạy học, vì nó vừa là phương tiện giúp học sinh khai thác kiến thức, vừa là nguồn tri thức đa dạng, phong phú mà học sinh rất dễ nắm bắt. Qua giảng dạy môn Công nghệ ở trường THCS đặc biệt là từ khi thực hiện thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học tôi nhận thấy đây là một vấn đề bổ ích về lí luận cũng như thực tiễn. Nó có ý nghĩa rất lớn đối 2 “Đồ dùng trực quan” như thế nào để đảm bảo tính trực quan, để đạt hiệu quả cao trong giảng dạy Công nghệ lại là một vấn đề càng khó khăn hơn. Đó cũng chính là vấn đề của mỗi người giáo viên Công nghệ đã và đang quan tâm hiện nay, với hy vọng góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Công nghệ. Vì vậy mà trong bài viết này tôi xin trình bày: “Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Công nghệ 7 ” sẽ giúp cho việc dạy học theo phương pháp mới và việc thực hiện chương trình giáo dục mới sẽ đạt hiệu quả cao hơn như mong muốn. 2. Tên sáng kiến: “Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy Công nghệ 7” 3. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Bùi Thị Duyên 4. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: - Giáo viên dạy môn công nghệ 7 - THCS Vân Hội – huyện Tam Dương – tỉnh Vĩnh Phúc. 5. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: - Từ tháng 9 năm 2015 đến nay. 6. Mô tả bản chất của sáng kiến: Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đối với học sinh. Các em phải được rèn luyện ở mức độ cao hơn, khả năng tự học, tự nhận thức và hành động vì thế ngày càng được coi trọng. Muốn đạt được điều đó GV cần áp dụng nhiều phương pháp dạy - học trong đó có phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan. Cần phải tiếp thu những điểm cơ bản có tính nguyên tắc của cách dạy truyền thống song phải luôn luôn đổi mới, làm một cuộc cách mạng trong người dạy và người học để khắc phục sự bảo thủ, thụ động như: Giáo viên chỉ chuẩn bị giảng những điều học sinh dễ nhớ, học sinh chỉ chú trọng ghi lời giảng của giáo viên và kiến thức trong sách để trình bày lại khi kiểm tra. 4 học sinh phải hiểu ra sự nguy hại của việc thi gì học nấy sẽ làm cho học vấn của học sinh bị què quặt, thiếu toàn diện..... 6.1. Tình hình sử dụng các dụng cụ trực quan đối với việc dạy học trước đây: - Trước đây, đa số các trường đều thiếu thốn về cơ sở vật chất, nghèo nàn về các thiết bị dạy học đối với bộ môn. - Theo quan niệm giáo dục lạc hậu trước đây cho rằng dụng cụ trực quan là phương tiện cần thiết để giáo viên truyền thụ kiến thức mới, dụng cụ minh họa cho các kiến thức khó truyền đạt, còn đối với học sinh chỉ có tác dụng chấp nhận và ghi nhớ. - Theo phương pháp sử dụng này thì dụng cụ trực quan chưa phát huy hết vai trò của mình, đôi khi chưa thể hiện được tính trực quan và tính khoa học của nó, giờ dạy Công nghệ sẽ rơi vào những hạn chế sau: + Giáo viên chưa phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức. + Các kiến thức trồng trọt do giáo viên cung cấp học sinh sẽ không hiểu sâu, nhớ kỹ bằng chính các em tự nhận thức. + Các nguồn trí thức từ dụng cụ trực quan chưa thực sự hấp dẫn đối với các em. Do đó không gây hứng thú học tập, không có khả năng phát triển tư duy. + Chưa tạo cho học sinh các kỹ năng quan trọng như: biết chăm sóc cây trồng, nhân giống cây ăn quả, bón phân thúc, làm xiro 6.2. Những biện pháp để thực hiện: Để giúp học sinh khắc sâu được kiến thức, đồng thời tạo hứng thú trong học tập, giúp các em chủ động tìm tòi kiến thức mới. Là một giáo viên ngoài đổi mới phương pháp dạy học còn phải biết kết hợp linh hoạt, sáng tạo các “đồ dùng trực quan”. Ngoài những đồ dùng sẵn có trong nhà trường phải 6 Bốn bài học ở trên đều nói về “vai trò” vì thế khi giáo viên dạy mục I “Vai trò của trồng trọt, vai trò của rừng, vai trò của chăn nuôi, vai trò của nuôi thủy sản”. Nên đưa ra bốn hình vẽ tương ứng với bốn vai trò của từng ngành để học sinh quan sát. Từ tranh ảnh, hình vẽ ấy học sinh sẽ tư duy, nhận thức được vai trò cụ thể của từng ngành. Cuối cùng giáo viên khái quát, chốt lại phần kiến thức trọng tâm nhất. Ví dụ 2: Bài 6: Các biện pháp sử dụng và cải tạo đất. Bài 9: Cách sử dụng và bảo quản các loại phân bón thông thường. Bài 19: Các biện pháp chăm sóc cây trồng. Bài 20: Thu hoạch, bảo quản và chế biến nông sản. Với nội dung của các bài học trên việc giáo viên đưa ra hình vẽ, tranh ảnh là vô cùng quan trọng. Nhìn vào các tranh ảnh, hình vẽ “ Các biện pháp cải tạo và bảo vệ đất” học sinh có thể kể tên chính xác từng biện pháp và hiểu được thế nào là “ làm ruộng bậc thang”, thế nào là trồng xen cây nông nghiệp với cây phân xanh”. Tương tự như vậy với nội dung các bài “ Cách sử dụng các loại phân bón”: tương ứng với bốn bức tranh với hình ảnh: bón theo hàng, bón theo hốc, bón vãi, phun trên lá. Bài “Các biện pháp chăm sóc cây trồng”: tương ứng với tranh: tỉa, dặm, làm cỏ, vun xới, tưới tiêu nước, bón phân thúc. Bài “Thu hoạch bảo quản và chế biến nông sản”: tương ứng hình ảnh : cắt, nhổ, đào, hái. Giáo viên hướng dẫn học sinh cách để tìm ra ý nghĩa, mục đích của từng tranh ảnh bằng quan sát, thảo luận nhóm. Với những hình ảnh thực tế, sinh động đó học sinh sẽ học tập đầy hứng thú, chủ động, tích cực, tự giác từ đó giúp học sinh khắc sâu nhớ lâu kiến thức. Để thấy được vai trò quan trọng của tranh ảnh, hình vẽ trong dạy học tôi xin đưa ra thêm một vài ví dụ minh họa nữa: Khi giảng bài “Giống vật nuôi” dạy đến mục I. “Khái niệm về giống vật nuôi” giáo viên cho học sinh 8 - Giáo viên: + Hiểu rõ nội dung của từng bức tranh, ảnh. + Sưu tầm thêm nhiều tranh ảnh liên quan đến từng bài học. + Định hướng cho học sinh biết cách khai thác nội dung của từng tranh ảnh, hình vẽ. + Sau mỗi bức tranh ảnh đưa ra sau khi học sinh quan sát, tìm tòi kiến thức, cuối cùng giáo viên phải chốt lại những kiến thức trọng tâm liên quan đến tranh ảnh đó. - Với học sinh + Đọc tên tranh ảnh, xác định xem bức tranh đó thể hiện gì? + Tường thuật lại nội dung bức tranh. + Rút ra được ý nghĩa và nội dung kiến thức thông qua tranh ảnh. Ngoài tranh ảnh trong KGK giáo viên nên hướng dẫn học sinh phải sưu tầm thêm những tranh ảnh, thường xuyên cập nhật những tin tức mới để phục vụ cho bài học: vị dụ như báo nông nghiệp, báo khuyến nông, chương trình nông thôn mới, chương trình bạn của nhà nông. * Mô hình: Mô hình là hình ảnh thu nhỏ tượng trưng cho vật thật. Môn công nghệ 7 cũng được trang bị một số mô hình có sẵn như mô hình con lợn, mô hình con gà. Để tăng hiệu quả của việc sử dụng mô hình trước tiên giáo viên phải giới thiệu mô hình đang sử dụng, mô hình là vật tượng trưng cho phần kiến thức nào? Sau đó dùng các câu hỏi dẫn dắt học sinh đến mục đích mà giáo viên định truyền tải. Bằng việc trả lời được những câu hỏi giáo viên nêu ra là học sinh đã tìm ra các kiến thức liên quan. Ví dụ : Trong nội dung bài : “ Nhận biết một số giống lợn qua quan sát và đo kích thước các chiều”.Với nội dung bài học này thì giáo viên không thể đem vật mẫu thật lên lớp được mà chỉ có thể dùng mô hình lợn. Từ con lợn bằng mô hình thì giáo viên giảng cho học sinh biết các bộ phận 10 học sinh tự nghiên cứu, hoặc học sinh ghi nhớ từ SGK sau đó điền lên sơ đồ. Như vậy các em sẽ tích cực trong học tập sẽ phần nào giảm đi tính chây lười, ỷ lại ở một số học sinh yếu kém. Ví dụ 1: Trong bài 2 : “Khái niệm về đất trồng và thành phần của đất trồng”. Sau khi giáo viên hỏi các thành phần của đất rồi đưa ra sơ đồ câm về thành phần của đất, chắc chắn học sinh sẽ hoàn thành được ngay sơ đồ. Ví dụ 2: Bài 11: “Sản xuất và bảo quản giống cây trồng” giáo viên đưa ra sơ đồ câm về quy trình sản xuất giống cây trồng bằng hạt thông qua việc nghiên cứu SGK sau đó lên bảng hoàn thành sơ đồ. Ví dụ 3: Bài 52: “Thức ăn của động vật thủy sản” sơ đồ 16 mối quan hệ về thức ăn, đây là một mối quan hệ phức tạp nếu chỉ giải thích thì học sinh rất khó hiểu song giáo viên treo sơ đồ, yêu cầu học sinh thảo luận nhóm sau đó lên điền vào bảng . Như vậy sẽ giúp học sinh nhớ nhanh và hiểu rõ vấn đề hơn. Vậy tùy nội dung từng bài học mà giáo viên nên đưa sơ đồ sao cho phù hợp để tăng hiệu quả của tiết học đồng thời kích thích khả năng ghi nhớ ngay tại lớp phần kiến thức trọng tâm. Để tăng hiệu quả sử dụng sơ đồ giáo viên nên: - Chuẩn bị sơ đồ phóng to, chữ viết rõ ràng. - Lựa chọn những nội dung phù hợp cho từng loại sơ đồ. - Động viên kịp thời những học sinh hoàn thành tốt phần nội dung mà giáo viên yêu cầu. * Mẫu vật Kiến thức của môn công nghệ 7 gắn liền với kiến thức thực tế đời sống. Vì vậy ngoài việc sử dụng tranh ảnh, hình vẽ, mô hình thì mẫu vật thật cũng là một “đồ dung trực quan” không thể thiếu trong việc giúp học sinh lĩnh hội, ghi nhớ kiến thức một cách nhanh nhất, chính xác nhất. Ví dụ 1: Bài 8: “Nhận biết một số loại phân hóa học thông thường”. Giáo viên cần chuẩn bị ít nhất các mẫu vật sau: Phân đạm, phân lân, phân 12
Tài liệu đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_su_dung_do_dung_truc_quan.doc