Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ thực hành môn Tin học

Tin học là một môn học mới được đưa vào giảng dạy tại trường trung học cơ sở Gia Khánh. Mặc dù các em rất thích máy tính nhưng là để chơi các trò chơi trên máy chứ chưa ý thức được tầm quan trọng của bộ môn nên chất lượng học tập còn hạn chế. Đây là bộ môn đặc trưng muốn đạt chất lượng cao đòi hỏi các em phải tiếp xúc với máy tính nhiều nhưng thời lượng mỗi tuần chỉ có 2 tiết trên lớp thì các em chưa thể thực hành hết các kiến thức đã học mà nếu có thực hành hết thì sẽ chóng quên. Bên cạnh đó do hoàn cảnh kinh tế còn khó khăn gia đình không có điều kiện để mua máy tính cho con em học, theo thống kê của giáo viên dạy thì mỗi lớp chỉ được 3 đến 4 em là gia đình có máy vi tính.
Thực tế qua những năm trực tiếp giảng dạy bộ môn tôi nhận thấy hầu như học sinh đều rất yêu thích và hứng thú với môn Tin học, tuy nhiên chất lượng bộ môn qua các năm học chưa cao, đặc biệt là kĩ năng thực hành trên máy của học sinh còn yếu, thậm chí một số học sinh còn rất ngại khi sử dụng máy tính để rèn luyện kĩ năng.
Một thực tế khác là ý thức học tập của một số học sinh không cao, không hứng thú trong học tập, lười hoạt động, không tích cực tự giác, ý thức tự học, tự rèn luyện yếu.
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu. Thực hiện Nghị quyết 40/2000/NQ-QH của Quốc hội và chỉ thị số 14/2001 CTTTg của Thủ tướng chính phủ về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, đến nay việc đổi mới giáo dục phổ thông đã trở thành mục tiêu hàng đầu của toàn ngành giáo dục đào tạo. Đổi mới từ nội dung chương trình sách giáo khoa đến đổi mới cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, phương pháp dạy học, đặc biệt là chú trọng đến các đối tượng dạy học. Phần lớn giáo viên đứng lớp đã thích nghi với chương trình, phương pháp mới nhất là sử dụng, khai thác triệt để tác dụng thiết bị thực hành, của trang thiết bị, phương tiện dạy học như bảng phụ, tranh ảnh, thiết bị thí nghiệm - thực hành, máy chiếu, đặc biệt là kỹ năng thực hành trên máy vi tính. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ nói chung của ngành tin học nói riêng, với những tính năng ưu việt, sự tiện dụng và được ứng dụng rộng rãi, tin học ngày nay là một phần không thể thiếu được của nhiều ngành, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Do vậy, Việt Nam nói chung và ngành giáo dục đào tạo nói riêng phải đầu tư phát triển về mọi mặt. Đặc biệt là nguồn nhân lực tức là phải đào tạo ra một thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, nắm vững tri thức khoa học công nghệ để làm chủ trong mọi hoàn cảnh xã hội nhằm đáp ứng được nhu cầu của con người trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để đáp ứng được các yêu cầu trên, môn Tin học đã được đưa vào giảng dạy ở các trường phổ thông với vai trò là môn học tự chọn. Môn Tin học ở trường phổ thông có nhiệm vụ trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về công nghệ thông tin và vai trò của nó trong xã hội hiện đại. Môn học này giúp học sinh bước đầu làm quen với phương pháp giải quyết vấn đề theo quy trình công nghệ và kĩ năng sử dụng máy tính phục vụ học tập và cuộc sống. Là môn học mới đưa vào trường phổ thông và có những đặc thù riêng liên quan chặt chẽ với sử dụng máy tính, cách suy nghĩ và giải quyết vấn đề theo quy trình công nghệ, coi trọng làm việc theo nhóm. Đặc trưng của môn Tin học là kiến thức lí thuyết đi đôi với thực hành, đặc biệt ở lứa tuổi trung học cơ sở phần thực hành còn chiếm thời lượng nhiều hơn. Qua thời gian trực tiếp giảng dạy môn Tin học bản thân tôi nhận thấy rằng nhiều học sinh còn yếu về kĩ năng thực hành trên máy, thậm chí còn có một số học sinh còn ngại thực hiện các thao tác trên máy mà chủ yếu là quan sát các học sinh khác trong nhóm thực hành (học sinh khá -giỏi). Do vậy các tiết thực hành ít khi đạt yêu cầu chất lượng. Từ thực tế trên, trong quá trình dạy học tôi luôn băn khoăn trăn trở làm thế nào nâng cao chất lượng trong mỗi giờ thực hành giúp các em thành thục các 1 học nói chung và các giờ thực hành nói riêng để nâng cao chất lượng giờ thực hành môn Tin học. 5. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử. Bắt đầu từ ngày 10 tháng 1 năm 2016. 6. Mô tả bản chất của sáng kiến. a. Về nội dung của sáng kiến. Muốn tạo ra một tiết học thực hành đạt kết quả cao, theo tôi trước hết giáo viên cần nắm được các phương pháp dạy học tích cực sau đó thiết kế bài dạy thực hành phù hợp với nhiều đối tượng học sinh và cuối cùng là điều hành tổ chức tốt hoạt động của học sinh trên lớp. Sau đây là nội dung của chương trình nghiên cứu. 1. Các phương pháp dạy học tích cực. 1.1.Trực quan hoá thông tin dạy học. Trực quan hoá thông tin dạy học là một quá trình thông qua đó người học tri giác các tài liệu học tập dưới dạng các biểu trưng hình ảnh, âm thanh, mô hình, vật thật,... với sự hỗ trợ của dụng cụ trực quan. Dụng cụ trực quan được sử dụng trong môi trường học tập như trong dạy học, giáo dục qua vệ tinh dựa trên cơ sở máy tính,... dụng cụ trực quan có thể được sử dụng hiệu quả để giảng dạy các sự kiện, các chỉ dẫn, các quá trình và các khái niệm trừu tượng mà chúng thường khó nhớ, khó hiểu. Các mục tiêu dạy học có thể thực hiện tốt nếu biết phát huy thông qua công cụ trực quan. Có thể nói dụng cụ trực quan có nhiều thuận lợi hơn hẳn so với dạy học bằng ngôn ngữ: Chứa nhiều thông tin và tổ chức thuận lợi các thông tin trong cùng một vị trí, làm đơn giản các khái niệm, làm sáng tỏ các chi tiết của một khái niệm dựa trên ngôn ngữ trừu tượng. Đặc biệt là tranh ảnh trực quan làm tăng sự nhớ trong học tập đây là một trong những mục tiêu hàng đầu của giáo dục. Từ những ưu điểm trên, tôi nhận thấy nếu áp dụng vào dạy học nhờ dụng cụ trực quan là đèn chiếu, tranh ảnh, biểu tượng.... vào dạy Tin học có hiệu quả rất cao. Trước khi sử dụng dụng cụ trực quan cho một bài học thì trước hết Giáo viên cần xác định bài nào cần dụng cụ trực quan và những dụng cụ trực quan đó là gì phục vụ cho những đơn vị kiến thức nào trong bài học. Đèn chiếu tương đối dễ sử dụng và việc chuẩn bị cho việc dạy học với đèn chiếu tương đối dễ dàng, ít tốn thời gian. Tuy nhiên để sử dụng đèn chiếu thì phải có sự chuẩn bị kiến thức và các nội dung kiến thức cần trình chiếu. Nội dung đưa lên máy chiếu phải rõ ràng chính xác và phải có máy vi tính. Chẳng hạn: khi giới thiệu cho học sinh màn hình làm việc của chương trình bảng tính giáo viên có thể mở chương trình bảng tính Excel trên màn chiếu như hình dưới đây để thao tác và giới thiệu. 3 1.2.2. Dạy học trực quan bằng biểu trưng đồ hoạ. Biểu trưng đồ hoạ được tạo ra bằng nhiều cách đồ họa liên quan với hình ảnh, đồ hoạ liên quan với khái niệm, đồ hoạ tuỳ ý... Việc dạy học trực quan bằng biểu trưng đồ hoạ trong Tin học giúp người học có thể thao tác nhanh các bước thực hành - đây là yêu cầu cần đạt của người học Tin học, dựa vào các biểu trưng đồ hoạ này học sinh có thể phát hiện ra khái niệm, ý nghĩa của nó. .. Chẳng hạn khi dạy bài “Thao tác với bảng tính” giáo viên cần cho học sinh làm quen với việc sao chép, di chuyển, cắt (xoá)... nhanh qua các biểu tượng. Giáo viên đưa các biểu tượng Tương tự bài “bài thực hành 2” giáo viên đưa các biểu tượng ? Hãy nêu tên các biểu tượng trên và tính năng của các biểu tượng * Dạy bài “Định dạng trang tính” giáo viên cần cho học sinh nhớ lại các nút công cụ định dạng văn bản thông qua các biểu tượng sau. Hs nhìn vào biểu tượng và nêu chức năng của các biểu trượng từ đó các em nắm chắc hơn kiến thức đã học và học bài mới tốt hơn. * Dạy bài “Trình bày và in trang tính” ngoài việc dùng lệnh thì có thể in, xem trước khi in thông qua các biểu tượng sau: 1.2.3. Dạy học trực quan bằng biểu trưng hình ảnh Biểu trưng hình ảnh được tạo ra như ảnh chụp, tranh minh hoạ, tranh vẽ. Tất cả đều phản ánh sự vật và ý nghĩa dưới dạng các biểu trưng cụ thể và mang tính hiện thực cao, người học có khả năng phiên dịch các biểu trưng hình ảnh thành các vật tương tự trong hiện thực. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh nhập công thức giáo viên có thể sử dụng hình ảnh: Chän « cÇn NhÊn Enter hoÆc nh¸y chuét nhËp c«ng thøc vµo nót nµy ®Ó kÕt thóc NhËp c«ng thøc Gâ dÊu = 5 lượng học sinh của lớp, số lượng máy hiện có, giáo viên phải có phương án chia nhóm một cách phù hợp. Ví dụ: - Chia nhóm theo đôi bạn cùng tiến. - Chia nhóm theo địa hình khu dân cư. - Chia nhóm đa dạng nhiều đối tượng. - Chia nhóm theo đối tượng học sinh. Tuy nhiên để việc thực hành theo nhóm có hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải lựa chọn nội dung đưa vào thực hành phù hợp với nhiều đối tượng học sinh. Cách chia nhóm: Chia nhóm 2 học sinh/máy. Các nhóm có thể tự cử nhóm trưởng của nhóm mình. Các bước tiến hành: - Giáo viên nêu vấn đề, yêu cầu và nội dung thực hành. - Giáo viên hướng dẫn cho học sinh các kĩ năng thao tác trong bài thực hành, thao tác mẫu cho học sinh quan sát. - Tổ chức hướng dẫn các nhóm thực hành, gợi mở, khuyến khích học sinh tích cực hoạt động nhóm và khả năng tư duy của các em. - Giáo viên quản lí, giám sát học sinh thực hành theo yêu cầu: + Trong quá trình học sinh thực hành, giáo viên theo dõi quan sát và bổ trợ khi cần. + Chỉ rõ những kĩ năng, thao tác nào được dành cho đối tượng học sinh yếu trong các nhóm, hoặc cho đối tượng học sinh khá giỏi trong nhóm. + Phát hiện các nhóm thực hành không có hiệu quả để uốn nắn điều chỉnh kịp thời. + Luôn có ý thức trách nhiệm giúp đỡ nhưng tránh can thiệp sâu làm hạn chế khả năng tư duy sáng tạo của học sinh. + Trong quá trình thực hành, giáo viên có thể đưa ra nhiều cách để thực hiện thao tác giúp các em rèn luyện và nâng cao kĩ năng. - Giáo viên có thể kiểm tra hiệu quả làm việc của các nhóm bằng cách chỉ định 1 học sinh trong nhóm thực hiện lại các thao tác đã thực hành. Nếu học sinh được chỉ định không hoàn thành nhiệm vụ, trách nhiệm gắn cho các thành viên trong nhóm, đặc biệt là nhóm trưởng. Hoặc cho các nhóm trưởng kiểm tra kết quả thực hành lẫn nhau của nhóm khác theo vòng tròn. Làm được như vậy các em sẽ tự giác và có ý thức hơn trong học tập. - Nhận xét, đánh giá kết quả học tập: + Tổ chức cho các nhóm tự nhận xét kết quả thực hành, nhóm trưởng điều hành, nhận xét về kĩ năng, thái độ học tập của các bạn trong nhóm. 7 Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại các phép tính được sử dụng trong chương trình bảng tính, cách nhập công thức vào bảng tính. Giáo viên yêu cầu học sinh viết các biểu thức ra vở. Đối với đối tượng học sinh yếu: giáo viên chỉ cần yêu cầu các em có thể chuyển biểu thức đúng. Đối với học sinh khá giỏi: giáo viên yêu cầu thêm biểu thức phải là tối ưu nhất. Sau đó giáo viên chiếu kết quả cho học sinh đối chiếu với bài làm của mình. a) 20 + 15; 20 - 15; 20 * 15; 20/5; 20^5 b) 20 + 15 * 4; (20 + 15) * 4; (20 - 15) * 4; 20 - (15 * 4) c) 144/6 - 3*5; (144/6 - 3)*5; 144/(6 - 3)*5; d) 15^2/4; (2 + 7)^2 /7; (32 + 7)^2– (6 + 5)^3; (188 – 12^2)/7 Giáo viên mở chương trình bảng tính và nhập mẫu một vài biểu thức phức tạp cho học sinh quan sát sau đó yêu cầu học sinh thực hành theo nhóm 2em/trên máy theo hướng đôi bạn cùng tiến. Trong quá trình thực hành giáo viên có thể quan sát hỗ trợ các nhóm còn lúng túng. Giáo viên cho học sinh thi đua xem nhóm nào nhanh nhất, nhóm nào có cách làm ngắn nhất và khống chế thời gian thực hành phần này. Kết thúc phần thực hành cho các nhóm chấm chéo kết quả của nhau. Giáo viên nhận xét kết quả thực hành. Hoạt động 2: Bài tập 2 Giáo viên chiếu H25 cho học sinh quan sát và nêu yêu cầu đề bài. Giáo viên chiếu bảng các công thức cần nhập vào các ô tính tương ứng trên màn hình. E F G H I 1 =A1+5 =A1*5 =A1+B2 =A1*B2 =(A1+B2)*C4 2 =A1*C4 =B2-A1 =(A1+B2)-C4 =(A1+B2)/C4 =B2^A1-C4 3 =B2*C4 =(C4-A1)/B2 =(A1+B2)/2 =(B2+C4)/2 =(A1+B2+C4)/3 Giáo viên mở bảng tính mới và thực hành mẫu. học sinh quan sát theo dõi, sau đó giáo viên cho học sinh thực hành theo nhóm 2 em/máy tính. Giáo 9
Tài liệu đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_g.doc