Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập làm văn

Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập làm văn

 Tập làm văn là một phân môn quan trọng của môn Tiếng Việt. Nó giúp học sinh có năng lực sử dụng tiếng Việt để học tập, giao tiếp. Trau dồi những ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm lành mạnh, tốt đẹp qua nội dung bài dạy.

Để làm được một bài Tập làm văn, học sinh cần phải huy động các kiến thức về Tập đọc, Luyện từ và câu, các hiểu biết về môi trường xung quanh cuộc sống .

 Nói chung phân môn Tập làm văn đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng hợp từ các phân môn khác của môn Tiếng Việt. Bởi vậy, Tập làm văn mang tính thực hành toàn diện, tổng hợp.

Ngoài ra phân môn Tập làm văn còn mang tính sáng tạo vì một bài Tập làm văn thể hiện sự suy nghĩ, tư duy của cá nhân, là tác phẩm không trùng lặp của mỗi học sinh.

 Các em học sinh lớp 2 vốn sống còn ít, vốn hiểu biết về tiếng Việt còn rất sơ sài, chưa định rõ được giao tiếp. Cụ thể như: các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu logic hoặc các câu đã có đủ ý nhưng chưa có hình ảnh, các từ ngữ được dùng về nghĩa chưa rõ ràng, việc trình bày diễn đạt ý của các em có mức độ rất sơ lược, đặc biệt là khả năng miêu tả. Mặt khác tính sáng tạo thực hành trong văn bản chưa cao, thể hiện ở bố cục bài văn, cách chấm câu, sử dụng hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động.

 Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy Tập làm văn là phân môn khó trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với mục tiêu cụ thể là: Hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói. Nếu bắt buộc phải nói, các em thường đọc lại bài viết đã chuẩn bị trước. Do đó, giờ dạy chưa đạt hiệu quả cao.

 Chính vì lí do trên, khi dạy bài Tập làm văn ở lớp 2, giáo viên hay gặp khó khăn là học sinh thụ động, ít phát biểu, có chăng cũng chỉ là những học sinh có năng lực là hoạt động, các em chỉ trả lời câu hỏi mà không có sự liên kết thành đoạn, diễn đạt lủng củng, ý tưởng nghèo nàn,. Nói đã khó, viết càng khó hơn. Điều đó đã làm cho các em chán nản, lo sợ khi học phân môn Tập làm văn. Vì thế yêu cầu đặt ra của tôi là làm thế nào để các em hứng thú, tích cực khi học phân môn Tập làm văn. Đó là câu hỏi đặt ra cho không ít giáo viên giảng dạy lớp 2. Câu hỏi đó luôn thôi thúc tôi nghiên cứu, tìm các biện pháp để nâng cao hiệu quả khi dạy phân môn Tập làm văn. Qua 2 năm áp dụng, tôi xin mạnh dạn trình bày một số biện pháp "Giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập làm văn".

 

doc 20 trang thuychi01 29313
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập làm văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
 PHẦN
TRANG
A. Mở đầu
2
I. Lí do chọn đề tài
2
II. Mục đích nghiên cứu
2
III. Đối tượng nghiên cứu
3
IV. Phương pháp nghiên cứu
3
B. Nội dung
4
I. Cơ sở lí luận
4
II. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN
4
 Về giáo viên
4
 Về học sinh
4
III. Các biện pháp đã thực hiện
5
Biện pháp 1
5
Biện pháp 2
10
Biện pháp 3
11
IV. Hiệu quả của SKKN
15
C. Kết luận và kiến nghị
18
 I. Kết luận
18
 II. Kiến nghị
19
 Tài liệu tham khảo 
20
 A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài.
 Tập làm văn là một phân môn quan trọng của môn Tiếng Việt. Nó giúp học sinh có năng lực sử dụng tiếng Việt để học tập, giao tiếp. Trau dồi những ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm lành mạnh, tốt đẹp qua nội dung bài dạy.
Để làm được một bài Tập làm văn, học sinh cần phải huy động các kiến thức về Tập đọc, Luyện từ và câu, các hiểu biết về môi trường xung quanh cuộc sống ...
 Nói chung phân môn Tập làm văn đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng hợp từ các phân môn khác của môn Tiếng Việt. Bởi vậy, Tập làm văn mang tính thực hành toàn diện, tổng hợp.
Ngoài ra phân môn Tập làm văn còn mang tính sáng tạo vì một bài Tập làm văn thể hiện sự suy nghĩ, tư duy của cá nhân, là tác phẩm không trùng lặp của mỗi học sinh.
 Các em học sinh lớp 2 vốn sống còn ít, vốn hiểu biết về tiếng Việt còn rất sơ sài, chưa định rõ được giao tiếp. Cụ thể như: các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu logic hoặc các câu đã có đủ ý nhưng chưa có hình ảnh, các từ ngữ được dùng về nghĩa chưa rõ ràng, việc trình bày diễn đạt ý của các em có mức độ rất sơ lược, đặc biệt là khả năng miêu tả. Mặt khác tính sáng tạo thực hành trong văn bản chưa cao, thể hiện ở bố cục bài văn, cách chấm câu, sử dụng hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động.
 Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy Tập làm văn là phân môn khó trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với mục tiêu cụ thể là: Hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói. Nếu bắt buộc phải nói, các em thường đọc lại bài viết đã chuẩn bị trước. Do đó, giờ dạy chưa đạt hiệu quả cao.
 Chính vì lí do trên, khi dạy bài Tập làm văn ở lớp 2, giáo viên hay gặp khó khăn là học sinh thụ động, ít phát biểu, có chăng cũng chỉ là những học sinh có năng lực là hoạt động, các em chỉ trả lời câu hỏi mà không có sự liên kết thành đoạn, diễn đạt lủng củng, ý tưởng nghèo nàn,... Nói đã khó, viết càng khó hơn. Điều đó đã làm cho các em chán nản, lo sợ khi học phân môn Tập làm văn. Vì thế yêu cầu đặt ra của tôi là làm thế nào để các em hứng thú, tích cực khi học phân môn Tập làm văn. Đó là câu hỏi đặt ra cho không ít giáo viên giảng dạy lớp 2. Câu hỏi đó luôn thôi thúc tôi nghiên cứu, tìm các biện pháp để nâng cao hiệu quả khi dạy phân môn Tập làm văn. Qua 2 năm áp dụng, tôi xin mạnh dạn trình bày một số biện pháp "Giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập làm văn".
II. Mục đích nghiên cứu.
 Nghiên cứu việc dạy, học phân môn Tập làm văn nhằm phát hiện những khó khăn, hạn chế còn tồn tại cả về nội dung và phương pháp trong dạy học phân môn này. Từ đó có những đóng góp và bổ sung, điều chỉnh cách hướng dẫn học sinh và đưa ra những biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập làm văn. 
III. Đối tượng nghiên cứu:
	 - Những kinh nghiệm, giải pháp theo định hướng đổi mới nhằm giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập làm văn. Học sinh biết thực hành về các nghi thức lời nói và biết viết được đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu theo đúng yêu cầu của đề bài, đủ ý tiến tới viết được đoạn văn hay.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
	 1. Nghiên cứu cơ sở lí luận:
 Đọc và nghiên cứu các tài liệu môn Tiếng Việt có liên quan đến dạy phân môn Tập làm văn để rút ra những nhận xét, đánh giá và đưa ra quan điểm của bản thân hoặc quan điểm mà bản thân tán thành. Đó là dạy cho học sinh biết cách phân tích và ứng dụng khi làm các bài tập khác nhau thuộc các dạng bài khác nhau trong quá trình học tập phân môn Tập làm văn.
 2. Nghiên cứu thực tiễn: 
 - Thông qua dự giờ, quan sát các giờ học của học sinh, trao đổi ý kiến với giáo viên và học sinh.
 - Khảo sát chất lượng học sinh.
 - Kiểm nghiệm hiệu quả và tính khả thi của biện pháp bản thân áp dụng.
 - Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận:
Ngôn ngữ dưới dạng viết giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn học sinh học tốt phân môn Tập làm văn là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng.
Như chúng ta đã biết, Tập làm văn có tầm quan trọng đặc biệt ở bậc tiểu học. Nếu học sinh biết thực hành tốt về các nghi thức lời nói và biết viết tốt bài văn, đủ số lượng câu, đủ ý, diễn đạt rõ ràng, hấp dẫn người đọc thì học sinh đó có điều kiện học tốt hơn môn Tiếng Việt và nhờ vậy mà kết quả học tập sẽ đạt cao hơn. Vì vậy cần xây dựng cho các em nền móng vững chắc để tạo hứng thú cho học sinh và giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn các lớp sau này. Hơn thế nữa học tốt phân môn Tập làm văn sẽ học tốt hơn môn Tiếng Việt. Đó cũng chính là rèn cho các em sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ, các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nên nhân cách con người. Đồng thời học tốt phân môn Tập làm văn chính là cơ sở, là nền tảng để học tốt các môn học khác nhằm thực hiện đúng mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra. II. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN:
1. Về giáo viên:
Qua tìm hiểu tôi thấy đa số giáo viên đã nắm bắt được tầm quan trọng của việc dạy cho học sinh học văn và có sự đầu tư nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy bước đầu có hiệu quả. Tuy nhiên, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn khi dạy Tập làm văn. Quỹ thời gian dành cho phân môn còn hạn chế. Qua thực tế tôi thấy việc rèn cho học sinh thực hiện đúng về nghi thức lời nói cũng như đoạn văn tốt chưa được giáo viên chú tâm nhiều. Một số giáo viên chưa nắm rõ ý đồ, nội dung các bài tập đưa ra, phương pháp dạy học còn đơn điệu, rập khuôn máy móc theo sách giáo viên, hầu như ít sáng tạo, chưa linh hoạt, chưa cuốn hút được học sinh. Giáo viên chưa quan tâm đến sửa câu, cách dùng từ đặt câu. Từ đó dẫn đến học sinh tiếp thu bài một cách thụ động, ít sáng tạo. 
2. Về học sinh:
Trong nhiều năm qua tôi luôn được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 2. Trong quá trình dạy phân môn Tập làm văn, tôi nhận thấy đa số học sinh có hứng thú trong giờ học, song chủ yếu tập trung vào các bài tập làm miệng với các yêu cầu nói lời cảm ơn, xin lỗi, đáp lời khẳng định, phủ định... Học sinh thích thú nói về các con vật, người, quang cảnh và những gì diễn ra xung quanh. Do vốn từ của các em chưa nhiều, kĩ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ nói và viết của học sinh còn hạn chế nên đôi khi các em chưa nhận ra được sự khác biệt giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
- Do đặc điểm tình hình địa phương là vùng nông thôn nên các em học sinh có vốn sống còn ít, vốn hiểu biết về Tiếng Việt còn rất sơ sài, chưa định rõ trong giao tiếp. Vì vậy khi các em nói và viết câu văn chưa được rõ ràng, mạch lạc hoặc câu có thể đủ ý nhưng chưa có hình ảnh. Các từ ngữ được dùng về nghĩa còn chưa rõ ràng. Việc trình bày diễn đạt ý còn ở mức độ rất sơ lược. Bên cạnh đó, nhiều học sinh khi làm bài còn nói hoặc viết bừa, không đúng yêu cầu, nói hoặc viết lan man, sai ý, trình bày ý lộn xộn, thiếu tự nhiên,... Hơn thế nữa, một số em thiếu tự tin trong giờ Tập làm văn dễ dẫn đến các em chán nản, thiếu quyết tâm trong học tập.
Để có cơ sở so sánh kết quả học tập của học sinh qua từng thời điểm, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng phân môn Tập làm văn lớp 2, vào tuần 8 trong hai năm học (2015 - 2016; 2016 - 2017) với cùng 1 đề bài sau; 
Đề bài:
1. Viết lời mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị đối với bạn:
a) Bạn đến chơi nhà em. Em rót nước mời bạn uống.
b) Em thích một bài thơ mà bạn đã thuộc. Em nhờ bạn chép lại.
c) Bạn ngồi bên cạnh nói chuyện trong giờ học. Em yêu cầu (đề nghị) bạn giữ trật tự để nghe cô giáo giảng bài.
2. Em hãy viết đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu kể về cô giáo lớp 1 của em.
Tôi tiến hành chấm và nhận xét bài làm của học sinh trong lớp và tổng hợp kết quả như sau.
Kết quả khảo sát chất lượng phân môn Tập làm văn
Năm học 2015 - 2016
Tổng số HS
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Ghi chú
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
25
18
72%
7
28%
Kết quả khảo sát chất lượng phân môn Tập làm văn
Năm học 2016 - 2017
Tổng số HS
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Ghi chú
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
33
25
75,8%
8
24,2%
Qua khảo sát cho thấy học sinh chưa biết diễn đạt câu văn có hình ảnh, vốn từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít, do vậy chất lượng bài làm chưa cao, ý văn nghèo nàn, câu văn lủng củng.
Từ thực tế giảng dạy, để khắc phục tình trạng trên tôi xin trình bày một số biện pháp cụ thể nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học Tập làm văn. 
III. Các biện pháp đã thực hiện:
 Biện pháp1: Hướng dẫn học sinh thực hành tốt về các nghi thức lời nói.
Tất cả những nghi thức lời nói luôn xảy ra trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên, có em mạnh dạn thì hay nói còn những em nhút nhát thì ít nói. Bởi vậy giáo viên phải dùng những biện pháp tích cực để các em nói ra những điều mà các em suy nghĩ trong đầu. Có thể tổ chức trò chơi sắm vai với những tình huống cụ thể để mỗi học sinh được tự do bộc lộ suy nghĩ, cách diễn đạt của mình. Ngoài ra, giáo viên nên lưu ý thái độ của học sinh khi nói với từng đối tượng là lớn hơn mình, bằng mình hay nhỏ hơn mình thì có những đại từ xưng hô khác nhau và những cử chỉ thể hiện cũng khác, tùy tình huống vui hay buồn.
Khi nói và viết lưu ý học sinh nên thêm những từ chỉ tình cảm để câu văn thể hiện sự lễ phép, lịch sự như: nhé, ạ...
Mặt khác giáo viên không chỉ dạy cho học sinh thực hành giao tiếp trong tiết học mà còn phải giáo dục các em mọi lúc, mọi nơi trong cuộc sống hàng ngày với một thời gian dài.
Điều quan trọng hơn nữa là giáo viên cần cho các em nắm rõ tình huống vì khi viết các em hay lầm lẫn giữa lời đáp và lời nói.
Ví dụ: Em nói thế nào khi bạn xin lỗi em vì bạn đã làm bẩn áo em. Các em có thể bị lầm và nói là: - Xin lỗi bạn vì tớ lỡ làm bẩn áo bạn. Nguyên nhân là do các em chưa đọc kĩ đề, sự suy xét của các em còn non nớt. Bởi vậy, giáo viên cần tập cho các em đọc kĩ đề bài. Đặt mình vào tình huống của đề bài, cùng sắm vai theo tình huống đó. Có vậy các em mới không bị lầm lẫn. Và em có thể đáp lại lời xin lỗi của bạn là: "Không sao đâu, tớ sẽ nhờ mẹ tớ giặt là sạch ngay thôi mà."
Với dạng bài nói và đáp lời khẳng định, phủ định có lẽ tương đối dễ với các em, các em chỉ cần nói có hoặc không. Tuy nhiên, giáo viên cần giải thích cho các em thuật ngữ khẳng định, phủ định. Vì nếu không giải thích, các em chỉ làm theo mẫu trong sách giáo khoa thì không thể phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh. Còn nếu ta giải thích thì khi vừa gặp dạng bài tập này các em sẽ tự giác hiểu và làm bài tốt. Bởi vậy giáo viên cần cho các em thực hành sắm vai và cần lưu ý tình cảm thể hiện qua thái độ.
Ví dụ: Khi đáp lời khẳng định thì thể hiện sự vui mừng, đáp lời phủ định thể hiện sự tiếc nuối. Có thế thì người nghe mới hiểu được tình cảm của mình.
Khi hướng dẫn học sinh thực hành về các nghi thức lời nói phải kết hợp cả cử chỉ, thái độ, tình cảm. Chính vì vậy trong quá trình giảng dạy tôi đã phân ra từng dạng bài theo từng trường hợp cụ thể. Từ đó tôi hướng dẫn cho các em thực hành về các nghi thức lời nói kết hợp cả cử chỉ, thái độ, tình cảm. 
Trường hợp 1: Dạng bài chào hỏi hoặc tự giới thiệu; Đáp lại lời chào: Tôi hướng dẫn các em khi chào hỏi hoặc tự giới thiệu lời nói, giọng nói, vẻ mặt, ánh mắt, nụ cười,...phải tùy từng đối tượng mình gặp gỡ và những điều này cũng chứa đựng nội dung tiếp xúc. Cách chào hỏi, cách xưng hô phải phù hợp với từng người, từng hoàn cảnh cụ thể. Lời chào hỏi cần tự nhiên, lịch sự, cử chỉ thân mật. Khi đáp lại lời chào, Tôi hướng cho học sinh cần nói thế nào để tỏ thái độ lịch sự, thân mật. Khi đáp lại lời tự giới thiệu cần nói thế nào để tỏ thái độ vui vẻ, phấn khởi, đón chào.
Trường hợp 2: Dạng bài nói lời cảm ơn hay xin lỗi; đáp lại lời cảm ơn, xin lỗi. Tôi hướng dẫn các em khi nói lời cảm ơn hay xin lỗi lời nói phải chân thành, lịch sự, lễ phép và đi liền với cách biểu hiện tình cảm, thái độ của mình khiến mọi người thông cảm, bỏ qua cho lỗi của em. Đối với dạng bài đáp lời cảm ơn hay đáp lời xin lỗi tôi đã gợi ý để các em biết được:
+ Đáp lời cảm ơn các em cần chú ý ngữ điệu, cách xưng hô:
- Lời người lớn tuổi: chân tình
- Lời bạn bè: lễ phép, khiêm tốn.
- Với bạn bè thân quen lời đáp cần thể hiện thái độ gần gũi, quan tâm.
- Với người lạ (khách) lời đáp cần thể hiện thái độ lịch sự, lễ phép.
+ Đáp lời xin lỗi:
- Với những sự việc nhỏ, không đáng kể thì lời đáp cần thể hiện thái độ nhẹ nhàng, vui vẻ, sẵn sàng bỏ qua.
- Với những việc đáng buồn hay đáng tiếc xảy ra, lời đáp cần thể hiện thái độ lịch sự, nhẹ nhàng nhưng cũng có thể kèm theo ý nhắc nhở để lần sau họ không mắc lỗi như vậy nữa.
Trường hợp 3: Dạng bài Nói lời mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị; Nói lời đồng ý hay lời từ chối: 
Khi dạy bài "Nói lời mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị" tôi cho học sinh thực hành lời nói kết hợp với cử chỉ, nét mặt, giọng nói. Vì vậy khi nói các em cần có cử chỉ, giọng điệu cho phù hợp. Nói lời đồng ý hay lời từ chối tôi gợi ý cho các em khi nói lời nói phải phù hợp với người đưa ra đề nghị và phải phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Nói lời từ chối cần nhẹ nhàng, khéo léo, không làm mất lòng người khác. Nói lời đồng ý cần thể hiện sự sẵn sàng vui vẻ.
Trường hợp 4: Dạng bài nói, đáp lời chúc mừng (chia vui), chia buồn, an ủi: 
- Khi nói lời chia vui hướng dẫn các em cần chú ý: người mình chia vui là ai? Chia vui về chuyện gì? Tình cảm, thái độ, cử chỉ khi nói phải như thế nào cho phù hợp. 
Hướng dẫn học sinh cần nói với thái độ chân thành, tự nhiên, vui vẻ nhằm thể hiện sự chia vui hay khâm phục, tự hào, phấn khởi.
- Đáp lời chúc mừng (chia vui) cần nói thế nào để bày tỏ niềm vui của mình và sự biết ơn đối với bạn.
Ví dụ: Mình rất vui và cảm ơn bạn nhé!
- Khi nói lời chia buồn, an ủi cần bày tỏ tình thương yêu, sự quan tâm, thông cảm với nhau.
Chú ý giọng hỏi thăm phải nhẹ nhàng, tình cảm. Khi nói lời an ủi với người trên, em cần tỏ thái độ ân cần nhưng lễ phép (thể hiện qua giọng nói và cách xưng hô)
Lời an ủi thể hiện sự động viên và lời đáp lại phải thể hiện sự chân thành, 
làm cho con người thêm thông cảm, gần gũi nhau hơn.
Chú ý: Khi nói hay trả lời, cần nhìn vào người hỏi chuyện, nói to đủ nghe với thái độ tự nhiên, nét mặt tươi vui.
Ví dụ: Khi cây hoa do ông (bà) trồng bị chết. Em có thể nói lời an ủi ông (bà) như sau:
- Bà ơi! Bà đừng buồn. Cháu sẽ cùng bà trồng lại cây khác, bà nhé!
- Bà đừng buồn nữa, cháu sẽ nhờ bố tìm cây khác trồng lại để bà vui.
Trường hợp 5: Dạng bài nói lời khen ngợi; Đáp lời khen ngợi:
- Khi nói lời khen ngợi, tôi nhấn mạnh để các em nhớ trong câu thường dùng các từ rất, quá, thật, làm sao,và khi viết thường dùng dấu chấm than ở cuối câu.
- Khi đáp lại lời khen ngợi cần thể hiện sự biết ơn, khiêm tốn và tùy từng trường hợp có thể thêm lời hứa cố gắng hơn nữa.
Ví dụ: Em mặc áo đẹp được các bạn khen: 
- Bạn mặc cái áo này đẹp quá!
Em đáp lại:
- Thế à? Mình cảm ơn các bạn.
Để tăng cường rèn luyện các kiến thức đã học và giúp các em tham gia tích cực hơn trong giờ Tập làm văn, từ đó các em sẽ vận dụng trong giao tiếp hàng ngày, tôi đã áp dụng một số trò chơi sắm vai vào trong từng thời điểm thích hợp. Cụ thể như sau:
a. Trò chơi: Phỏng vấn
Trò chơi này có thể áp dụng vào bài tập 1, tuần 1: Tự giới thiệu: Câu và bài.
* Mục đích:
- Luyện tập cách giới thiệu về mình và về người khác với thầy cô, bạn bè hoặc người xung quanh.
- Phân công: 1 học sinh đóng vai phóng viên truyền hình, còn 1 học sinh đóng vai chị phụ trách, 1 học sinh đóng vai đội viên Sao Nhi Đồng... sau đó đổi vai.
- Học sinh có thể chơi trò chơi này theo nhóm hoặc cả lớp.
- Để tất cả các em nắm được cách chơi, trước khi giao việc cho từng em, giáo viên cần tổ chức cho một hoặc hai cặp học sinh làm mẫu trước lớp.
* Cách chơi: - Một học sinh giới thiệu về mình (tên, quê quán, học lớp, trường, thích môn học nào, thích làm việc gì?...)
- Sau khi nghe bạn giới thiệu xong về mình, phóng viên phải giới thiệu lại từng bạn với cả lớp (hoặc nhóm). Nội dung phải chính xác; cách giới thiệu càng rõ ràng, mạch lạc, hấp dẫn càng tốt. Cho nhiều học sinh tập làm phóng viên.
- Cuối cùng cho lớp bình chọn phóng viên giỏi nhất.
b. Trò chơi: Chọn lời nói đúng
Trò chơi này có thể áp dụng vào các dạng bài: Cảm ơn, xin lỗi - Tuần 4; Đáp lời cảm ơn - Tuần 21; Đáp lời xin lỗi - Tuần 22; ...
* Mục đích: 
Luyện tập cách nói lịch sự khi cần cảm ơn người khác và đáp lại lời cảm ơn của người khác, khi họ cảm ơn với mình.
Rèn thói quen lịch sự trong giao tiếp và sinh hoạt hằng ngày; tập cảm ơn và xin lỗi bằng những lời khác nhau.
* Chuẩn bị:
- 4 tranh minh họa (4 băng giấy ghi 4 tình huống khác nhau có xuất hiện lời cảm ơn và lời đáp lại lời cảm ơn)
+ Một bạn trai tới xách giúp một vật nặng cho một bạn gái.
+ Một bạn bị vấp ngã được một bạn khác đỡ dậy.
+ Trong giờ vẽ, bạn nữ cho bạn nam mượn bút chì.
+ Trên đường đi học về, bạn nam đưa cho bạn nữ chai nước uống.
- Chia nhóm: 8 HS/nhóm.
- 1 túi sách to dựng một số đồ vật, 1 chiếc bút chì màu, 1 chai nước uống.
- Cử 2 HS giúp việc cho giáo viên. 
* Cách tiến hành: - Mỗi nhóm cử 2 học sinh tham gia trò chơi ở tình huống 1 lên trước bảng lớp để học sinh khác theo dõi.
- Học sinh đại diện của từng nhóm lần lượt lên chơi trò chơi đóng vai ở mỗi tình huống đã cho trong khoảng 1 phút.
Ví dụ: 2 học sinh đại diện cho 1 nhóm tham gia chơi. Một em đóng vai bạn gái đang xách một chiếc túi to, bước đi chậm chạp và nặng nhọc. Một học sinh đóng vai bạn trai đến bên cạnh bạn gái và nói: "Bạn để mình xách đỡ cho nào!" rồi đỡ lấy chiếc túi từ tay bạn gái. Bạn gái nói: "Cảm ơn bạn, bạn tốt quá!" Bạn trai cười tươi và nói: "Có gì đâu, việc nhỏ thôi mà!"
- Sau khi đại diện cả 4 nhóm đã chơi xong về một tình huống, Giáo viên yêu cầu 2 học sinh giúp việc đọc to lời của hai vai trong từng nhóm để cả lớp cùng nghe lại và bình chọn lời nói đúng.
- Học sinh tiếp tục chơi ở các tình huống khác theo gợi ý nói trên.
Chú ý: 2 học sinh giúp việc giáo viên ghi lại câu nói của hai bạn tham gia chơi ở từng tình huống, mỗi học sinh giúp việc cho giáo viên chỉ chuyên ghi lại lời nói của một vai (vai "cảm ơn" hoặc vai "đáp lại lời cảm ơn").
c. Trò chơi: Nhận lại đồ dùng
Trò chơi này có thể áp dụng vào bài tập 1, tuần 6: (Dạng bài: Khẳng định, phủ định); bài tập 1, tuần 8: (Dạng bài: Mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị.) 
* Mục đích:
- Cung cấp một số cách nói lịch sự trong giao tiếp; phục vụ các bài dạy về nghi thức lời nói (phủ định, nhờ cậy, yêu cầu, đề nghị).
- Rèn thói quen dùng lời nói lịch sự khi cần đề nghị trong giao tiếp và trong sinh hoạt hằng ngày. 
* Chuẩn bị:
- Khoảng 20 đồ dùng thông thường của học sinh : mũ, sách, vở, bút, ... Mỗi đồ dùng có gắn tên chủ ở phía trong (phía khuất) của đồ vật.
- Một bàn đặt các đồ vật. Cạnh bàn có một học sinh ngồi làm nhiệm vụ trả đồ dùng cho chủ nhân của nó khi tan học.
- 3 học sinh giúp việc cho giáo viên.
- Khoảng 20 lá cờ nhỏ để trao cho người đạt yêu cầu trong trò chơi.
* Cách tiến hành:
- Nêu cách chơi: Một nhóm khoảng 8 đến 10 học sinh làm động tác đứng dậy ra về khi tan học (đứng theo thứ tự để chờ lấy đồ dùng cá nhân).
Từng học sinh đến lượt mình thì nói lời đề nghị.
Ví dụ: - Cho tôi xin cái cặp (mũ, bút,...)
Học sinh làm nhiệm vụ trả đồ dùng, cố ý trao nhầm số đồ dùng cho từng bạn.
Học sinh nhận đồ dùng, xem lại tên chủ nhân (ghi ở đồ dùng) và nói hai câu: Một câu có nội dung "phủ định" đó không phải là đồ dùng của mình; Một câu có nội dung "đề nghị" bạn trả lại đồ dùng cho mình.
Ví dụ: - Cái bút này không phải của tôi. Cho tôi xin cái bút màu xanh ở đằng ki

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_lop_2_hoc_tot_phan_mon_t.doc