Rèn kĩ năng thực hành tiếng việt cho học sinh lớp 2 thông qua các trò chơi học tập
Môn Tiếng Việt ở lớp 2 nói riêng và ở Tiểu học nói chung có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt, các em được rèn luyện các thao tác tư duy, có những hiểu biết sơ giản về tự nhiên, xã hội và con người; về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Từ đó bồi dưỡng cho các em tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong thực tiễn dạy học hiện nay, việc dạy và học những kiến thức về mở rộng vốn từ theo chủ đề học tập, nhất là việc sử dụng vốn từ ngữ đó trong viết câu, viết đoạn văn ở lớp 2 nói riêng và ở Tiểu học nói chung còn gặp không ít khó khăn. Nhất là chưa thực sự chú trọng đến việc giúp học sinh sử dụng tiếng Việt một cách thành thạo, có kĩ năng nói - viết đúng tiếng Việt để từ đó phát triển lên mức độ nói - viết hay. Đồng thời, việc dạy học Tiếng Việt chưa tạo được niềm đam mê học tập thực sự cho trẻ. Dẫn đến các em còn thụ động trong học tập, chưa tích cực và tự giác học tập tiến bộ. Điều đó đồng nghĩa với việc không ít giáo viên còn gặp khó khăn trong việc tìm ra những phương pháp dạy học hiệu quả để giải quyết những vấn đề còn tồn đọng trong dạy học bộ môn này.
Ngoài ra, việc sử dụng “trò chơi học tập” trong dạy học Tiếng Việt của phần lớn giáo viên chưa nhiều, vẫn còn đơn điệu về hình thức và cách tổ chức, chưa tạo được hưng phấn cho học sinh trong mỗi tiết học. Điều này dẫn đến kĩ năng sử dụng từ để nói, viết thành câu, đoạn văn của học sinh còn gặp nhiều khó khăn, mang nhiều cảm tính.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN KĨ NĂNG THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH LỚP 2 THÔNG QUA CÁC TRÒ CHƠI HỌC TẬP Người thực hiện: Đỗ Thị Hằng Chức vụ: Phó Hiệu trưởng Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Xuân Lập - Thọ Xuân SKKN môn: Tiếng Việt THANH HOÁ NĂM 2019 MỤC LỤC MỤC LỤC MỤC TÊN ĐỀ MỤC TRANG 1 MỞ ĐẦU 1 1.1 Lí do chọn đề tài 1 1.2 Mục đích nghiên cứu 1 1.3 Đối tượng nghiên cứu 2 1.4 Phương pháp nghiên cứu 2 2 NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 3 2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 3 2.2 Thực trạng về việc tổ chức trò chơi học tập trong dạy Tiếng Việt lớp 2 4 2.3 Các biện pháp đã sử dụng để rèn kĩ năng thực hành tiếng Việt thông qua các trò chơi học tập cho học sinh lớp 2 trường Tiểu học Xuân Lập. 5 2.3.1 Tổ chức trò chơi trong phân môn Tập đọc 5 a Đọc văn tiếp sức 5 b Đọc thơ tiếp sức 6 c Đọc thơ truyền điện 7 d Ghép các dòng thơ thành bài 8 e Tìm nhanh, đọc đúng 8 g Biết một câu, đọc cả đoạn 9 h Nghe đọc đoạn, đoán tên bài 10 i Thi đọc truyện theo vai 11 2.3.2 Giúp học sinh mở rộng vốn từ thông qua các hoạt động trò chơi trong dạy Luyện từ và câu 11 a Tìm nhanh từ cùng chủ đề 11 b Tìm nhanh từ đồng nghĩa 12 c Tìm “Kẻ trú ẩn” 13 d Thi ghép chữ thành từ 14 e Xếp từ theo nhóm 15 g Đặt câu theo tranh 15 h Thi đặt câu theo mẫu (Ai là gì?) 16 2.3.3. Rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh lớp 2 thông qua tổ chức trò chơi ở các phân môn học khác của Tiếng Việt. 17 a Tổ chức trò chơi khi dạy phân môn Tập làm văn 17 b Tổ chức trò chơi khi dạy phân môn Kể chuyện. 17 2.4 Kết quả đạt được 18 3 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 19 3.1 Kết luận 19 3.2 Kiến nghị 19 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Môn Tiếng Việt ở lớp 2 nói riêng và ở Tiểu học nói chung có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt, các em được rèn luyện các thao tác tư duy, có những hiểu biết sơ giản về tự nhiên, xã hội và con người; về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Từ đó bồi dưỡng cho các em tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong thực tiễn dạy học hiện nay, việc dạy và học những kiến thức về mở rộng vốn từ theo chủ đề học tập, nhất là việc sử dụng vốn từ ngữ đó trong viết câu, viết đoạn văn ở lớp 2 nói riêng và ở Tiểu học nói chung còn gặp không ít khó khăn. Nhất là chưa thực sự chú trọng đến việc giúp học sinh sử dụng tiếng Việt một cách thành thạo, có kĩ năng nói - viết đúng tiếng Việt để từ đó phát triển lên mức độ nói - viết hay. Đồng thời, việc dạy học Tiếng Việt chưa tạo được niềm đam mê học tập thực sự cho trẻ. Dẫn đến các em còn thụ động trong học tập, chưa tích cực và tự giác học tập tiến bộ. Điều đó đồng nghĩa với việc không ít giáo viên còn gặp khó khăn trong việc tìm ra những phương pháp dạy học hiệu quả để giải quyết những vấn đề còn tồn đọng trong dạy học bộ môn này. Ngoài ra, việc sử dụng “trò chơi học tập” trong dạy học Tiếng Việt của phần lớn giáo viên chưa nhiều, vẫn còn đơn điệu về hình thức và cách tổ chức, chưa tạo được hưng phấn cho học sinh trong mỗi tiết học. Điều này dẫn đến kĩ năng sử dụng từ để nói, viết thành câu, đoạn văn của học sinh còn gặp nhiều khó khăn, mang nhiều cảm tính. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm tạo cho học sinh tích cực, chủ động và sáng tạo trong học tập là vấn đề đang được nhiều người quan tâm. Chính vì lẽ đó, trong quá trình dạy học, tôi luôn chủ động, tìm tòi và học hỏi đồng nghiệp, lãnh đạo nhà trường trong việc đổi mới phương pháp dạy học để mỗi tiết học của các em thực sự cuốn hút và hiệu quả bằng việc mạnh dạn áp dụng: “Rèn kĩ năng thực hành tiếng Việt cho học sinh lớp 2 thông qua các trò chơi học tập”. Từ đó có thể giải quyết phần nào những vấn đề còn vướng mắc và tồn đọng trong dạy học thực hành tiếng Việt lớp 2 nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung. 1.2. Mục đích nghiên cứu Khi lựa chọn việc áp dụng “Rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh lớp 2 thông qua các trò chơi học tập” thì mục đích chính là tháo gỡ những khó khăn về kĩ năng sử dụng vốn từ để nói, viết thành câu, đoạn văn. Qua đó, tạo sự tự tin, tích cực, chủ động và hứng thú học tập cho các em để mỗi tiết học thực sự lí thú và hiệu quả. Từ đó, giúp học sinh lớp tôi phụ trách nói riêng và học sinh lớp 2 tại trường tiểu học Xuân Lập nói chung phát triển toàn diện các kĩ năng, năng lực, phẩm chất và tư duy trong học tập. 1.3. Đối tượng nghiên cứu - Một số biện pháp Rèn kĩ năng thực hành tiếng Việt cho học sinh lớp 2 thông qua các trò chơi học tập. - Học sinh lớp 2C - Trường Tiểu học Xuân Lập. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Khi thực hiện áp dụng “Rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh lớp 2 thông qua các trò chơi học tập”, tôi đã sử dụng một số phương pháp chính như: phương pháp nghiên cứu, xây dựng cơ sở lí thuyết; phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin; phương pháp luyện tập, thực hành cụ thể như sau: a. Phương pháp nghiên cứu, xây dựng cơ sở lí thuyết Là nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến vốn từ ngữ, cách cung cấp vốn từ để nói, viết câu, đoạn văn và các trò chơi, cách tổ chức trò chơi học tập gần gũi, phù hợp với nội dung kiến thức tiếp nhận của học sinh. b. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế Tiến hành điều tra nghiên cứu thực tế việc tổ chức dạy và học về sử dụng vốn từ, câu bằng trò chơi học tập trong môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 2 ở trường Tiểu học Xuân Lập. c. Phương pháp luyện tập, thực hành Luyện tập và thực hành củng cố, bổ sung, làm vững chắc thêm các kiến thức lí thuyết. Trong luyện tập giúp học sinh được lặp lại các hoạt động với mục đích học thuộc những đoạn văn, thơ... đã học hay tham gia những trò chơi học tập làm cho việc sử dụng kĩ năng được thực hiện một cách tự động, thành thục. Trong thực hành, người ta không chỉ nhấn mạnh vào việc học thuộc mà còn nhằm áp dụng hay sử dụng một cách thông minh cách tri thức để thực hiện các nhiệm vụ khác nhau. Vì thế, trong dạy học, bên cạnh việc rèn cho học sinh luyện tập một số chi tiết cụ thể, cần lưu ý cho HS thực hành phát triển các kĩ năng. Sau khi áp dụng các phương pháp này vào thực tiễn dạy học tại lớp 2C, trường tiểu học Xuân Lập kết hợp thu thập các tài liệu, dữ liệu phục vụ cho đề tài, tôi đã tiến hành phân tích, tổng hợp các số liệu minh chứng cụ thể qua các thời điểm kiểm tra của giáo viên, tổ chuyên môn và Nhà trường từng thời điểm cụ thể. Từ đó rút ra kết luận và hiệu quả về việc áp dụng “Rèn kĩ năng thực hành Tiếng Việt cho học sinh lớp 2 thông qua các trò chơi học tập”. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận Như chúng ta đã biết, định hướng đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (ngày 26/1/2016) đã nêu rõ: “Phương pháp dạy và học mới không chỉ làm cho người học phát triển tư duy độc lập, sáng tạo mà còn giúp người thầy thêm tiến bộ, trưởng thành.Giáo dục cần phải tập trung phát triển mạnh năng lực và phẩm chất người học, đảm bảo hài hòa đức, trí, thể, mỹ, thực hiện tốt phương châm mới: Dạy người, dạy chữ và dạy nghề (trước đây là dạy chữ, dạy người, dạy nghề).” Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy và học tập trung rèn kĩ năng, bồi dưỡng năng lực và phẩm chất người học là nhiệm vụ cần được chú trọng trong giáo dục đào tạo. Việc giúp học sinh lớp 2 rèn kĩ năng sử dụng vốn từ để nói, viết câu, đoạn văn có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ vì nó chính là bước đầu đang giúp cho các em nắm vững ngôn ngữ tiếng Việt làm phương tiện giao tiếp phù hợp với từng đối tượng và hoàn cảnh cụ thể trong các tình huống phức tạp và đa dạng của cuộc sống. Giúp các em hiểu về thế giới xung quanh việc học tập ở trường, ở nhà cũng như tình cảm gia đình và vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, con người một cách chủ động, tích cực và sáng tạo. Từ đó gắn với việc giáo dục học sinh tình yêu gia đình, nhà trường, yêu tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động. Khi dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu học nói chung và dạy học thực hành tiếng Việt ở lớp 2 nói riêng thì cần phải chú ý đến trình độ, đến tâm sinh lí lứa tuổi của từng đối tượng học sinh tiểu học là thích khám phá, sáng tạo, thích chinh phục, làm chủ bản thân và hứng thú với những điều mới mẻ. Đồng thời, người giáo viên phải nắm được năng lực sử dụng tiếng Việt của các em. Từ đó để điều chỉnh nội dung, lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp làm sao cho trong mỗi tiết học, học sinh ở các trình độ khác nhau đều được quan tâm, được làm việc và được phát triển. Như vậy, người giáo viên phải không ngừng học hỏi, đổi mới phương pháp dạy học một cách triệt để trong mỗi giờ học giúp các em chủ động hoạt động và tự học một cách sáng tạo như đánh giá của Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Đặng Huỳnh Mai: “Phải biến quá trình dạy học thành quá trình hoạt động và tự học của học sinh Giáo viên phải tiếp xúc với trẻ, giúp trẻ hoạt động và đạt kết quả học tập tốt hơn.” Những điều nói trên đồng nghĩa với việc người giáo viên cần mạnh dạn nghiên cứu, xây dựng và thực hiện các trò chơi học tập mới mẻ, lí thú trong dạy học Tiếng Việt nhằm rèn kĩ năng thực hành tiếng Việt cho học sinh lớp 2. Qua đó giúp các em phát triển những kĩ năng, năng lực và phẩm chất cần thiết. Trong khuôn khổ của đề tài này, tôi xin lựa chọn sử dụng một số trò chơi học tập trong các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện để vận dụng. Qua đó giúp học sinh luyện đọc đúng, luyện đọc diễn cảm, ghi nhớ văn bản tốt, giúp các em có khả năng ghi nhớ từ nhanh, có vốn từ phong phú, có kĩ năng sử dụng vốn từ đó để đặt câu, viết đoạn văn một cách chủ động và tích cực hơn. Từ đó sẽ nâng cao hứng thú học tập, sự sáng tạo cho học sinh. Nó không những giúp các em hình thành và phát triển kĩ năng nghe - nói - đọc - viết, kỹ năng sử dụng vốn từ và câu tiếng Việt mà còn giúp giáo viên không ngừng tìm tòi, sáng tạo trong đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học có hiệu quả. 2.2. Thực trạng về việc tổ chức trò chơi học tập trong dạy Tiếng Việt lớp 2 2.2.1. Về phía nhà trường Nhà trường luôn quan tâm và tạo mọi điều kiện thuận tiện nhất về cơ sở vật chất, thiết bị và tài liệu dạy học cho giáo viên. Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn, các tiết dạy thử để rút kinh nghiệm, tạo điều kiện cho GV được trau dồi và học hỏi về chuyên môn. 2.2.2. Về đội ngũ giáo viên Thực tế việc dạy và học ở trường tiểu cho thấy, việc đổi mới phương pháp dạy học trong môn Tiếng Việt lớp 2 đâu đó ở một bộ phận không nhỏ giáo viên chưa thực sự triệt để. Việc sử dụng trò chơi học tập tiếng Việt trong dạy học Tiếng Việt lớp 2 còn hạn chế, đơn điệu và chưa hiệu quả. Dẫn đến học sinh còn lúng túng trong tìm và ghi nhớ từ ngữ, các kiểu câu và kĩ năng sử dụng vốn từ đó để đặt câu, viết đoạn văn chưa hợp lí, chưa hay. Vì thế mà trong mỗi giờ học, các em chưa hứng thú, chưa tích cực học tập và việc hoạt động hợp tác nhóm của học sinh chưa cao. 2.2.3. Đối với học sinh Thực hiện công văn số 8499/BGDĐT-NGCBQLGD ngày 10/12/2012 và một số Thông tư, quyết định của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về việc hướng dẫn thực hiện số tiết giảng dạy theo quy định của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các cơ sở giáo dục phổ thông. Bản thân tôi là Phó hiệu trưởng trường Tiểu học Xuân Lập, hàng năm đều chấp hành nghiêm túc sự phân công của Hiệu trưởng và tham gia giảng dạy đúng theo quy định. Năm học 2018-2019, được phân công giảng dạy môn Tiếng Việt lớp 2C với 36 học sinh. Các em phần lớn là con gia đình thuần nông nhưng luôn được gia đình tạo điều kiện tốt nhất để học tập. Các em có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập và sức khỏe tốt. Qua thời gian đứng lớp giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy việc lựa chọn kiến thức, nội dung của dạy tiếng Việt trong chương trình Tiếng Việt lớp 2 để xây dựng những “trò chơi học tập tiếng Việt” mới mẻ, lí thú nhưng không xa lạ mà gần gũi với tâm sinh lí và trình độ nhận thức của học sinh. Qua khảo sát chất lượng đầu năm tôi nhận thấy, lớp 2 là lớp đầu cấp nên việc đọc đúng, đọc hiểu văn bản của nhiều em còn chưa đạt yêu cầu; vốn từ vựng rất nghèo nàn, kĩ năng sử dụng vốn từ còn hạn chế, chưa nắm vững mẫu câu, Do đó, khi sử dụng từ để nói, viết thành câu, các em còn sử dụng còn tuỳ tiện, dựa theo cảm tính mà không biết dùng đúng ngữ cảnh. Các em hay bắt chước người khác, không đủ khả năng để chọn lọc hay suy nghĩ xem từ nào đúng, từ nào sai, câu này nên nói lúc nào, nên viết ra sao và dùng trong ngữ cảnh nào,Vì vậy, các câu, bài cứ na ná như nhau. Học sinh dùng câu chưa đúng ngữ điệu, không có sự biểu cảm, mà đơn thuần chỉ là những câu liệt kê, thông báo đơn giản. Các em dùng từ sai, làm cho người khác không hiểu ý diễn đạt, Cụ thể, tôi tiến hành cho HS làm bài khảo sát môn Tiếng Việt phần sử dụng vốn từ và câu của 36 học sinh lớp 2C như sau: Bảng 1: Kết quả khảo sát đầu năm học 2018 - 2019 Kết quả Sĩ số Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành SL TL SL TL SL TL 36 4 11,1 24 66,7 8 22,1 Từ kết quả thực trạng trên cho thấy kĩ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh lớp 2 do tôi phụ trách còn nhiều hạn chế. Dẫn đến mỗi tiết học về sử dụng vốn từ để nói, viết câu hiệu quả chưa cao; học sinh còn rụt rè, chưa thực sự tích cực và chủ động trong học tập, hoạt động nhóm. Vì vậy mà ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của môn Tiếng Việt nói riêng và các môn học khác trong nhà trường nói chung. Như thế là chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới của nền giáo dục Tiểu học ở Việt Nam hiện nay. 2.3. Các biện pháp đã sử dụng để rèn kĩ năng thực hành tiếng Việt thông qua các trò chơi học tập cho học sinh lớp 2 trường Tiểu học Xuân Lập. Từ thực trạng trong dạy học Tiếng Việt lớp 2 như đã nêu trên, tôi mạnh dạn đưa ra những biện pháp trong thực tiễn giảng dạy và công tác để giải quyết những băn khoăn, vướng mắc và những vấn đề còn tồn đọng trong dạy học và giáo dục học sinh với mong muốn góp phần giúp cho học sinh lớp tôi phụ trách có kĩ năng sử dụng vốn từ và câu thật tốt; được chủ động, tích cực và sáng tạo trong học tập, để mỗi giờ học nặng nề trước đây trở thành những giờ học lí thú và hiệu quả. Từ đó sẽ tạo được môi trường học tập có ích, giúp học sinh phát triển toàn diện; giúp giáo viên tiến bộ, trưởng thành, không ngừng trau dồi, nâng cao tay nghề. Một trong những giải pháp đó là tôi tổ chức một số trò chơi học tập nhằm tạo điều kiện cho học sinh tích cực tham gia vào hoạt động thực hành rèn luyện kĩ năng đọc đồng thời tiếp thu kiến thức một cách tự giác và hứng thú. Thông qua trò chơi học tập, học sinh còn được phát triển cả về trí tuệ, thể lực, nhân cách, giúp cho công việc học Tiếng Việt thêm nhẹ nhàng và hiệu quả. Sau đây tôi xin đưa ra một số biện pháp nhằm tạo hứng thú học phân môn Tập đọc cho học sinh lớp 2: 2.3.1. Tổ chức trò chơi trong phân môn Tập đọc a. Đọc văn tiếp sức (Trò chơi này thường được sử dụng trong hoạt động Luyện đọc đúng của tiết Tập đọc.) Ví dụ: Bài Có công mài sắt, có ngày nên kim. (TV2 Tập 1 – Trang 4) Sau khi đã tiến hành cho học sinh luyện đọc câu, đoạn chuẩn bị bước sang phần tìm hiểu bài, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: Thi đọc văn tiếp sức. Số học sinh tham gia chơi: 2 đội. Mỗi đội 5 em. Tổ trọng tài: 2 em. Tôi phổ biến luật chơi, giao nhiệm vụ cho tổ trọng tài. Từng nhóm lần lượt đọc tiếp sức như sau: Khi nghe trọng tài hô “Bắt đầu”, người số 1 (Đầu hàng bên phải hoặc bên trái) phải đọc câu thứ nhất của bài một cách rõ ràng, chính xác và nhanh. Dứt tiếng cuối cùng của câu thứ nhất, người số 2 (Cạnh số 1) mới được đọc tiếp câu số 2... Cứ như vậy cho đến người cuối cùng của nhóm. Nếu chưa hết bài, đoạn câu tiếp theo lại đến người số 1 đọc, người số 2 đọc... cho đến hết bài thì dừng lại. Trọng tài tính thời gian và ghi lại kết quả số phút toàn bài của từng nhóm; cùng các bạn theo dõi, nhận xét và tính điểm cho nhóm vừa đọc; công bố kết quả về thời gian đọc và số điểm đọc của từng nhóm. Nhóm được nhiều điểm nhất (Ít hoặc không mắc lỗi) và có thời gian đọc ít nhất là nhóm giành phần thắng trong cuộc thi đọc văn tiếp sức. Kết quả: Sau khi được tham gia chơi các em đã được rèn kĩ năng đọc đúng và nhanh, luyện tác phong nhanh nhẹn, tập trung chú ý để phối hợp nhịp nhàng giữa các bạn trong nhóm với nhau, đặc biệt các em rất hào hứng trong phần học tiếp theo. b. Đọc thơ tiếp sức Nhằm tạo hứng thú trong quá trình đọc bài thơ và cũng để các em làm việc nhịp nhàng trong nhóm. Tôi đã sử dụng trò chơi “Đọc thơ tiếp sức” trong phần Luyện đọc thuộc lòng. Ví dụ: Bài tập đọc Mẹ (Tiếng Việt 2 Tập 1 – Trang 101) Sau khi đã tiến hành dạy xong phần luyện đọc đúng và tìm hiểu bài, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: Thi đọc thơ tiếp sức. Số học sinh tham gia chơi: 2 đội. Mỗi đội 5 em. Tổ trọng tài: 2 em. Tôi phổ biến luật chơi, giao nhiệm vụ cho tổ trọng tài. Từng nhóm lần lượt đọc tiếp sức như sau: Nhóm 1: HS1: Lặng rồi cả tiếng con ve HS2: Con ve cũng mệt vì hè nắng oi. HS3: Nhà em vẫn tiếng ạ ời HS4: Kẽo cà tiếng võng mẹ ngồi mẹ ru. HS5: Lời ru có gió mùa thu Nhóm 2: HS1: Bàn tay mẹ quạt mẹ đưa gió về. HS2: Những ngôi sao thức ngoài kia HS3: Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con. HS4: Đêm nay con ngủ giấc tròn HS5: Mẹ là ngọn gió của con suốt đời. Đọc thơ tiếp sức. Bài Tập đọc: Mẹ Trọng tài tính thời gian và ghi lại số phút đọc xong toàn bài của từng nhóm, nhận xét, công bố kết quả, tuyên dương nhóm thắng cuộc. Kết quả: Cũng như trò chơi đọc văn tiếp sức, trò chơi đọc thơ tiếp sức đã giúp các em: Rèn kỹ năng đọc đúng và nhanh các bài thơ. Luyện tác phong nhanh nhẹn, tập trung chú ý để phối hợp nhịp nhàng giữa các bạn trong nhóm với nhau khi đọc thành tiếng từng dòng thơ tiếp nối. c. Đọc thơ truyền điện Ví dụ: Bài Gọi bạn (Tiếng Việt 2 Tập 1 – Trang 28) Sau khi đã tổ chức Luyện đọc thuộc lòng bài thơ, tôi tổ chức cho học sinh Thi đọc thuộc lòng truyền điện. Giáo viên phổ biến luật chơi: Mỗi đội cử 7 bạn tham gia thi. Nội dung: Đọc thuộc lòng theo hình thức truyền điện. - Đại diện nhóm đọc trước (A1) sẽ đứng lên đọc dòng thơ 1 rồi chỉ định thật nhanh “truyền điện” 1 bạn bất kỳ của nhóm đối diện (B1). Bạn được chỉ định phải đọc thật nhanh dòng thơ thứ 2 của bài; nếu đọc đúng và trôi chảy thì sẽ được chỉ định ngay 1 bạn ở nhóm kia (A2) đọc tiếp dòng thơ thứ 3... cứ như vậy cho đến hết bài. - Trường hợp người bị chỉ định (bị truyền điện) B1 chưa đọc ngay (vì chưa thuộc), các bạn ở nhóm đối diện sẽ hô “1,2,3,45,” hô (đếm) song mà bạn đó vẫn không đọc được thì phải đúng yên tại chỗ (bị điện giật); người đã đọc những dòng thơ trước (A1) sẽ được chỉ định một lần nữa để bạn khác trong nhóm đối diện đúng lên đọc tiếp (B2). - Nhóm nào có nhiều người phải đứng không thuộc bài – bị điện giật là nhóm thua cuộc. Tuyên dương đội thắng cuộc. Kết quả: Qua trò chơi HS được rèn kỹ năng đọc thuộc, nhanh những câu thơ trong bài mà học sinh đã đọc thuộc lòng. Đồng thời luyện trí nhớ và phản xạ nhanh nhạy, kịp thời; góp phần cảm nhận về ý câu thơ trong bài. HS tham gia trò chơi: Đọc thơ truyền điện. Bài Tập đọc: Gọi bạn d. Ghép các dòng thơ thành bài Ví dụ: Bài Bé nhìn biển (Tiếng Việt 2 Tập 2 – Trang 65) Giáo viên chuẩn bị 17 băng giấy gồm một băng đầu bài và 16 băng giấy ghi 16 dòng thơ dưới đây (Các băng giấy đều có gắn nam châm để tiện cho việc dán lên bảng). Mỗi nhóm cử 1 đội tham gia thi gồm 8 bạn. Tổ trọng tài: 2 bạn BÉ NHÌN BIỂN Băng đầu bài: Nghỉ hè với bố Băng 1: Phì phò như bễ Băng 9: Bé ra biển chơi Băng 2: Biển mệt thở rung Băng 10: Tưởng rằng biển nhỏ Băng 3: Còng giơ gọng vó Băng 11: Mà to bằng trời. Băng 4: Định khiêng sóng lừng. Băng 12: Như con sông lớn Băng 5: Nghìn con sóng khỏe Băng 13: Chỉ có một bờ Băng 6: Lon ta lon ton Băng 14: Bãi giằng với sóng Băng 7: Biển to lớn thế Băng 15: Chơi trò kéo co. Băng 8: Vẫn là trẻ con. Băng 16: Cách tiến hành: Hướng dẫn cách chơi: Trọng tài dán trước băng giấy ghi đầu bài lên bảng, chia 16 băng giấy còn lại cho 2 đội chơi: Đội 1
Tài liệu đính kèm:
- ren_ki_nang_thuc_hanh_tieng_viet_cho_hoc_sinh_lop_2_thong_qu.doc