Dạy học tích hợp môn Vật lý, hướng nghiệp nghề cho học sinh Trung học phổ thông

Dạy học tích hợp môn Vật lý, hướng nghiệp nghề cho học sinh Trung học phổ thông

Những năm trở lại đây, sự phát triển của kinh tế, khoa học kỹ thuật, đặt ra

những đòi hỏi phải đổi mới hệ thống giáo dục Việt Nam. Quan điểm về đổi mới giáo dục đã được thể hiện rất rõ trong Luật giáo dục, Điều 28.2 có ghi “Phương pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.

Ngoài những đòi hỏi đổi mới của thực trạng dạy học trong giáo dục, là những yêu cầu của sự phát triển kinh tế. Để đáp ứng điều đó, người lao động phải trang bị cho mình không chỉ kiến thức mà còn là các năng lực cần thiết nhằm mục đích thực hiện được các vấn đề phức tạp của cuộc sống và hình thành nên phẩm chất dám chịu trách nhiệm.

 

doc 19 trang thuychi01 16463
Bạn đang xem tài liệu "Dạy học tích hợp môn Vật lý, hướng nghiệp nghề cho học sinh Trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Những năm trở lại đây, sự phát triển của kinh tế, khoa học kỹ thuật, đặt ra
những đòi hỏi phải đổi mới hệ thống giáo dục Việt Nam. Quan điểm về đổi mới giáo dục đã được thể hiện rất rõ trong Luật giáo dục, Điều 28.2 có ghi “Phương pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Ngoài những đòi hỏi đổi mới của thực trạng dạy học trong giáo dục, là những yêu cầu của sự phát triển kinh tế. Để đáp ứng điều đó, người lao động phải trang bị cho mình không chỉ kiến thức mà còn là các năng lực cần thiết nhằm mục đích thực hiện được các vấn đề phức tạp của cuộc sống và hình thành nên phẩm chất dám chịu trách nhiệm. 
Bộ Giáo dục và Đào tạo có nhiều văn bản chỉ đạo nhằm triển khai thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo như đổi mới chương trình sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá Rõ ràng rằng ngành giáo dục phải không ngừng đổi mới trong đó cần quan tâm đến đổi mới nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức dạy học để làm sao đào tạo được nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Một điều chắc chắn, thế giới đang biến đổi từng ngày. Nó thể hiện ở sự dễ dàng quan sát được một số lượng khổng lồ thông tin hàng ngày trên mạng Internet. Vì vậy chức năng truyền thống vốn được cho là của giáo viên là truyền đạt kiến thức cho học sinh ngày càng bị mờ nhạt hơn, vì các thông tin học sinh có thể tiếp nhận ở chỗ khác. Vậy phải chăng, điều cần thiết cho học sinh và giáo viên là ngày càng có năng lực hơn. Có những công trình nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra rằng, có vô số những người đã lĩnh hội được kiến thức nhưng lại không có khả năng sử dụng các kiến thức đó vào cuộc sống thường ngày. Ví dụ như học có thể học thuộc lòng rất nhiều các công thức nhưng không có khả năng sử dụng trong một tình huống cụ thể. Dạy học tích hợp chính là nhằm vào mục tiêu phát triển năng lực người học. Với việc dạy học xoay quanh một chủ đề đòi hỏi sử dụng kiến thức, kỹ năng, phương pháp của nhiều môn học trong quá trình hình thành năng lực đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi, giao thoa các mục tiêu của các môn học khác nhau. Hơn nữa các tình huống trong dạy học tích hợp thường gắn với thực tiễn cuộc sống, có ý nghĩa với người học. Vì vậy, có thể nói đó là “tình huống có ý nghĩa” đối với người học. Thông qua đó góp phần hình thành nên các phương pháp, kỹ năng cơ bản của người học như: lập kế hoạch, tiếp nhận, xử lí thông tin,...Ngoài ra, dạy học tích hợp còn thiết lập được mối quan hệ về mục tiêu của các môn học, tinh giản kiến thức, tránh sự lặp lại nội dung ở các môn học. Tạo điều kiện để tổ chức hoạt động dạy học đa dạng, tận dụng được các nguồn tài nguyên cũng như sự huy động của các lực lượng xã hội tham gia vào quá trình giáo dục. 
Việc dạy học vật lí ở bậc trung học phổ thông cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó. Với tư cách một môn khoa học thực nghiệm, vật lí không thể tách rời thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, việc dạy và học ở nhiều trường phổ thông còn chịu tác động nặng nề bởi mục tiêu thi cử, do đó vẫn chủ yếu là truyền thụ kiến thức, kĩ năng để làm bài kiểm tra, mang nặng tính lí thuyết, xa rời thực tiễn người học đang sống, không khuyến khích tìm tòi, ít rèn luyện cho học sinh cách học, cách suy nghĩ, độc lập, sáng tạo giải quyết vấn đề. Ngoài việc giúp trang bị những kiến thức, kĩ năng cần thiết để bước vào đời, giáo dục nói chung và dạy học vật lí nói riêng còn cần đóng vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng tình yêu lao động và lòng say mê công việc, giúp học sinh định hướng nghề nghiệp phù hợp với sở thích và năng lực bản thân. Tích hợp nội dung hướng nghiệp vào các môn học là một trong các hình thức giáo dục hướng nghiệp (GDHN) ở trường phổ thông, song chưa thực sự hiệu quả, cũng như chưa gắn được những nội dung kiến thức trong chương trình học với những nghề nghiệp học sinh lựa chọn. Vật lí là môn học có tầm quan trọng đặc biệt trong công tác hướng nghiệp bởi nội dung các kiến thức vật lí phản ánh tương đối đầy đủ các dạng vận động và biến đổi của vật chất : cơ học, nhiệt học, ánh sáng, điện học, nguyên tử, chất lỏng, chất rắn, chất khí. Lượng thông tin nghề nghiệp của nội dung kiến thức vật lí gắn với các lĩnh vực kinh tế rất rõ nét và gần gũi đối với học sinh, thậm chí tồn tại ngay trong cuộc sống hàng ngày của các em, vì thế nó có sức thuyết phục lớn. Trong số nội dung kiến thức trong chương trình vật lí phổ thông, phần Nhiệt học lớp 10 và phần Điện xoay chiều lớp 12 chiếm một thời lượng tương đối lớn, cũng là phần kiến thức hấp dẫn, gần gũi, gắn liền với cuộc sống thường nhật, cũng như các công việc thuộc các lĩnh vực ngành nghề khác nhau.
Chính vì vậy tôi chọn đề tài “ Dạy học tích hợp môn Vật lý, hướng nghiệp nghề cho học sinh Trung học phổ thông”.
1.2. Mục đích nghiên cứu 
	Nếu tích hợp hợp lí, có hiệu quả các chủ đề đã được thực hiện ở chương trình Vật lí thì học sinh sẽ nhận thấy được sự “hội tụ” giữa các môn học, có một cái nhìn tổng thể về thế giới xung quanh, đồng thời hướng nghiệp được các ngành nghề liên quan đến môn Vật lí ở Trung học phổ thông.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
 Khách thể: Quá trình học tập môn Vật lí của học sinh lớp 10A1 và lớp 12A1.
 Đối tượng: Các chủ đề tích hợp trong chương trình Vật lí: hướng nghiệp nghề cho học sinh trong quá trình dạy học môn Vật lí.
 Phạm vi nghiên cứu: Chủ đề tích hợp: môi trường và phát triển bền vững, khí tượng học và khí hậu học, vai trò của tư duy thống kê trong khoa học, sức khỏe, an toàn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết; phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin các lớp 10A1, 12A1 trường trung học phổ thông Cầm Bá thước và phương pháp thống kê xử lí số liệu.
2. Nội dung sáng kiến kinh ngiệm
2.1. Cơ sở lí luận 
Dạy học tích hợp có thể được hiểu là quá trình dạy học, trong đó giáo viên xây dựng các tình huống thực tế, thiết thực để học sinh tích hợp các nội dung của những môn học gần gũi nhau thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ lý luận và thực tiễn được đề cập trong các lĩnh vực đó. Từ đó, học sinh thấy được sự “hội tụ” giữa các môn học và có quan điểm tổng hợp khi giải quyết vấn đề. 
	Dạy học tích hợp góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân... 
	 Mục tiêu của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cũng như đáp ứng mục tiêu giáo dục thế kỉ XXI mà UNESCO đưa ra “học để biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định”. Để đào tạo nên những con người phát triển toàn diện cũng như đáp ứng mục tiêu giáo dục đó, nhiều môn học đã được đưa vào trong chương trình giảng dạy. Các môn học đó phải liên kết với nhau để cùng thực hiện mục tiêu giáo dục đã đề ra. 
	Thêm vào đó, khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển như vũ bão làm cho lượng tri thức của loài người càng tăng nhanh chóng. Việc cập nhật tin tức cho các nội dung khoa học của các môn học như Vật lí, Hóa học, Sinh học đang gia tăng với tốc độ lớn trong khi quỹ thời gian cũng như kinh phí để HS ngồi trên ghế nhà trường là có hạn. Do vậy, không thể đưa nhiều môn học hơn nữa vào nhà trường, cho dù những tri thức này là rất cần thiết. do đó phải chuyển từ dạy các môn học riêng rẽ sang dạy các môn học tích hợp.
	Sự xuất hiện internet đã giúp học sinh tiếp thu nhiều kiến thức và có nhiều kênh tiếp nhận kiến thức khác nhau. Vì thế, sự độc quyền của nhà trường về truyền đạt tri thức đã bị phá vỡ. Điều này đặt ra yêu cầu cần một hướng nghiên cứu khác về tổ chức tri thức cho chương trình học là việc tạo ra những lĩnh vực tri thức “mới” bằng cách tích hợp những môn học đã có. Khi đó, học sinh có thể sẽ học được nhiều hơn nếu được cung cấp đầy đủ các tư liệu học tập được biên soạn trong khuôn khổ một chương trình tích hợp các môn khoa học một cách hợp lí. Học sinh có thể làm được nhiều hơn và tốt hơn nếu phương pháp dạy học của giáo viên thực sự chuyển hóa thành phương pháp dạy cách học cho học sinh, theo cách tiếp cận dạy học giải quyết vấn đề mà học sinh là trung tâm quá trình học. Cần phải tích hợp các môn khoa học, dạy cho học sinh cách thu thập, chọn lọc, xử lí các thông tin, biết vận dụng các kiến thức học được vào các tình huống của đời sống thực tế. 
	Dạy học tích hợp còn góp phần giảm tải học tập cho học sinh
	Quá trình học tập của học sinh khi dạy học tích hợp các môn học sẽ tránh được tình trạng trùng lặp nội dung giữa các môn đó, giảm thiểu khối lượng kiến thức môn học, hoặc thêm thời lượng cho việc dạy học một nội dung theo qui định, nó góp phần làm giảm tải học tập. Dạy học tích hợp tạo ra các tình huống gắn liền với thực tế cuộc sống để học sinh vận dụng các kiến thức đã học để giải quyết chúng. Quá trình dạy hoc tích hợp làm cho học sinh thấu hiểu nghĩa của các kiến thức cần tiếp thu nên các em sẽ cảm thấy thích thú hơn trong học tập. Từ đó, học sinh sẽ nhẹ nhàng vượt qua các khó khăn nhận thức và việc học tập trở nên có ý nghĩa hơn.
Dạy học tích hợp còn làm cho các quá trình học tập có ý nghĩa và mang tính mục đích rõ rệt. Trong môn học tích hợp, các quá trình học tập không tách rời cuộc sống hàng ngày, mà được tiến hành trong mối liên hệ với các tình huống cụ thể. Không còn hai thế giới riêng biệt: thế giới nhà trường và thế giới cuộc sống. Bằng cách đặt quá trình học tập vào các tình huống trong cuộc sống để học sinh nhận thấy ý nghĩa của các kiến thức, kỹ năng, năng lực cần lĩnh hội. Điều đó có ý nghĩa lớn trong việc tạo động lực học tập cho học sinh, điều mà hiện nay nhiều học sinh đã không có được và do đó việc học tập trở nên nặng nề, thiếu niềm vui và hứng thú. Trong quá trình học tập như vậy, các kiến thức, kỹ năng, năng lực của học sinh đều được huy động và gắn với thực tế cuộc sống. Khi gặp những tình huống tương tự thì các em có thể biết nên dùng những kiến thức, kỹ năng, năng lực nào để giải quyết cho phù hợp. 
Xác định rõ mục tiêu, phân biệt cái cốt yếu và cái ít quan trọng hơn
	Cái cốt yếu là những kiến thức, kỹ năng cơ bản cần cho học sinh vận dụng vào xử lí những tình huống có ý nghĩa trong cuộc sống hoặc đặt cơ sở không thể thiếu cho quá trình học tập tiếp theo. Trong thực tế nhà trường có nhiều điều chúng ta dạy cho học sinh nhưng không thật sự có ích, ngược lại có những năng lực cơ bản không được dành đủ thời gian. Chẳng hạn ở tiểu học, học sinh được biết nhiều quy tắc ngữ pháp nhưng không biết đọc diễn cảm một bài văn, học sinh biết trong một kilômét có bao nhiêu centimét nhưng lại không chỉ ra được một mét áng chừng dài bằng mấy gang tay. Mục tiêu này đòi hỏi phải lựa chọn kiến thức, kỹ năng cốt yếu xem là quan trọng đối với quá trình học tập của học sinh và dành thời gian cũng như các giải pháp hợp lí cho chúng. 
Dạy cách tìm tòi sáng tạo và vận dụng tri thức vào các tình huống khác nhau thể hiện cụ thể là:
- Nêu bật cách thức sử dụng kiến thức đã học;
- Tạo các tình huống học tập để học sinh vận dụng kiến thức một cách sáng tạo, tự lực.
Theo yêu cầu này thì dạy học tích hợp không chỉ quan tâm đánh giá việc HS hiểu những kiến thức đã học, mà chủ yếu sẽ đánh giá khả năng vận dụng các kiến thức trong các tình huống có ý nghĩa hay không. 
Vượt lên trên các nội dung môn học, xác lập mối liên hệ giữa các tri thức, các kỹ năng, tạo động cơ, năng lực cho người học.
	Trong quá trình học tập, học sinh có thể lần lượt học những môn học khác nhau, những phần khác nhau trong mỗi môn học nhưng học sinh phải biểu đạt các khái niệm đã học trong những mối quan hệ thống nhất trong phạm vi từng môn học cũng như giữa các môn học khác nhau. Thông tin càng đa dạng, phong phú thì tính hệ thống phải càng cao, có như vậy thì các em mới thực sự làm chủ được kiến thức và mới vận dụng được kiến thức đã học khi phải đương đầu với một tình huống thách thức, bất ngờ, chưa từng gặp.
	Tuy có những ưu điểm vượt trội như trên nhưng dạy học tích hợp cũng có một vài nhược điểm như sau:
	- Khi tiến hành dạy học tích hợp thì người thiết kế kế hoạch giảng dạy phải có suy nghĩ về chương trình, về sách giáo khoa một cách đầy đủ, phải có cái nhìn tổng hợp để tích hợp đúng mức nội dung, kỹ năng, có hiểu biết về cách đánh giá kết quả học tập của học sinh. Việc xây dựng chương trình và sách giáo khoa phải do tập thể các tác giả bộ môn xây dựng, phải có suy nghĩ về mục tiêu đã đặt ra và phải vượt qua khỏi tầm nhìn bộ môn thì mới đạt được kết quả.
	- Xây dựng chương trình và sách giáo khoa theo quan điểm tích hợp đối lập với cách làm truyền thống từ trước cũng như tâm lí của giáo viên, học sinh, cán bộ quản lí, phụ huynh nên sẽ gặp rất nhiều khó khăn cả về công sức và tiền bạc. 
	- Đội ngũ giáo viên còn chưa được chuẩn bị đầy đủ về cả lý thuyết và kỹ năng giảng dạy, do đó cần tác động vào việc đào tạo giáo viên để họ có thể đáp ứng các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. 
	- Khi xây dựng chương trình và sách giáo khoa theo quan điểm tích hợp thì nội dung kiến thức và kỹ năng chuyên ngành không được sâu sắc như trước.
	- Cần chuyển đổi cách dạy truyền thống từ giáo viên làm trung tâm sang lấy học sinh làm trung tâm của việc học; thay đổi cách kiểm tra, đánh giá chủ yếu về nội dung kiến thức kỹ năng cần lĩnh hội sang cách đánh giá khả năng vận dụng các kiến thức trong các tình huống có ý nghĩa hay không.
Dạy học tích hợp trong dạy học Vật lí ở trường phổ thông tại Việt Nam
- Vật lí học nghiên cứu các hình thức vận động cơ bản nhất của vật chất, cho nên những kiến thức của Vật lí là cơ sở của nhiều ngành Khoa học Tự nhiên, nhất là của Hóa học và Sinh học.
- Vật lí học ở trường phổ thông chủ yếu là Vật lí thực nghiệm. Phương pháp chủ yếu của nó là phương pháp thực nghiệm;
- Vật lí học nghiên cứu các dạng vận động cơ bản nhất của vật chất nên nhiều kiến thức Vật lí có liên quan chặt chẽ với các vấn đề cơ bản của triết học, tạo điều kiện phát triển thế giới quan khoa học ở học sinh;
- Vật lí học là cơ sở lý thuyết của việc chế tạo máy móc, thiết bị dùng trong đời sống và sản xuất;
- Vật lí học là một khoa học chính xác, đòi hỏi vừa phải có khả năng quan sát tinh tế, khéo léo tác động vào tự nhiên khi làm thí nghiệm, vừa phải có tư duy lôgic chặt chẽ, biện chứng, vừa phải trao đổi thảo luận để khẳng định chân lí.
- Cung cấp cho học sinh một hệ thống các kiến thức Vật lí cơ bản, hiện đại và các kỹ năng kỹ xảo tương ứng nhằm làm nền tảng cho họ có thể tham gia lao động sản xuất và tiếp tục theo học những chuyên ngành khoa học kỹ thuật cao hơn ở bậc đại học hoặc tự học, tự bồi dưỡng trong quá trình lao động, sản xuất; 
- Góp phần cùng các môn học khác rèn luyện tư duy, bồi dưỡng năng lực sáng tạo và khả năng tự học cũng như khả năng hoạt động độc lập của học sinh;
- Góp phần giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp, giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. Các nhiệm vụ trên luôn gắn liền với nhau, hỗ trợ nhau, được tiến hành đồng thời trong quá trình dạy học Vật lí, góp phần tạo ra những con người phát triển hài hoà toàn diện. 
2.2. Thực trạng vấn đề 
2.2.1. Thực trạng của việc thực hiện các nhiệm vụ dạy học Vật lí
	Nền giáo dục của nước ta trong những năm qua chú trọng thi cử, quan tâm đến dung lượng và mức độ đồng hóa kiến thức. Nhiều kiến thức mới đưa vào mà học sinh không thấy được sự vận dụng của chúng trong thực tế. Việc vận dụng kiến thức chủ yếu được quy về các kỹ năng giải bài tập Vật lí mà cùng với thời gian chúng ngày càng biến tướng thành những dạng bài toán Vật lí lắt léo, đánh đố, xa rời thực tiễn, nhưng lại cần nhiều thủ thuật và thời gian khổ luyện. Nhiều môn học được đưa vào trong chương trình nhưng mỗi môn chỉ khai thác những vấn đề khác nhau. Sau khi học xong chương trình, học sinh không thấy được sự “hội tụ” lẫn nhau giữa các môn học. Trong khi thực tế để giải quyết một vấn đề chúng ta phải tổng hợp nhiều môn học để giải quyết chúng. Phải chăng chúng ta cần một giải pháp trong vấn đề này.
	Ngoài ra, một số rất thiết thực cho cuộc sống của các em và cho xã hội mai sau nhưng chưa được đề cập nhiều trong chương như: vấn đề đạo đức, hướng nghiệp trong môn Vật lí, thái độ của học sinh đối với các vấn đề nhức nhối của xã hội hiện nay (sức khỏe, môi trường, an toàn.). Việc giáo dục cho học sinh những vấn đề này là điều rất cần thiết và cấp bách
2.2.2. Thực trạng dạy học vật lí gắn với nội dung nghề nghề nghiệp ở trường phổ thông
Khó khăn của học sinh trong việc lựa chọn nghề: Nhìn chung, tỉ lệ học sinh cảm thấy khó khăn khi chọn nghề, mà nguyên nhân chủ yếu là các em chưa biết nhiều ngành nghề trong xã hội, nếu có biết tên cũng chưa hiểu rõ về các nghề đó. Ngoài ra, một khó khăn khác đối với tất cả các đối tượng học sinh là chưa hiểu rõ về năng lực, sở trường của bản thân. 
Nhận thức về nghề nghiệp có liên quan đến vật lí: Khi được yêu cầu liệt kê những nghề nghiệp có liên quan đến vật lí và giải thích sự liên quan, số lượng nghề trung bình học sinh kể tên và giải thích được còn hạn chế. Các nghề do các em đưa ra chủ yếu là các nghề liên quan trực tiếp đến môn học, như giáo viên dạy vật lí, nhà nghiên cứu, nhà khoa học chỉ một số ít học sinh nghĩ đến các nghề như thợ điện, kĩ sư xây dựng
Qua tìm hiểu chúng tôi thấy rằng giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ thông chủ yếu được thực hiện thông qua bốn hình thức dưới đây. 
Đối với những học sinh đã từng được tiếp cận với các hình thức hướng nghiệp, chúng tôi đề nghị các em cho biết hứng thú của bản thân.
Bảng thống kê % về hứng thú của học sinh đối với các hình thức
hướng nghiệp(42 học sinh lớp 10A1 và 38 HS lớp 12A1).
Sinh hoạt hướng nghiệp
Hướng nghiệp nội dung môn học
Lao động sản xuất
Ngoại khóa
24,57%
28,75%
23,35%
23,33%
Điều tra cho thấy mức độ hứng thú của học sinh đối với tất cả các hình thức hướng nghiệp chưa cao. Tuy nhiên kết quả cũng cho thấy cơ hội của giáo dục hướng nghiệp qua các môn học, vì học sinh tỏ ra thích hình thức này hơn các hình thức còn lại. Tác động hướng nghiệp của các môn khoa học cơ bản thể hiện ở chỗ: từ những tri thức chung học sinh biết được những phương tiện, quy trình, hiệu quả của quá trình lao động. Sự hiểu biết này có ý nghĩa to lớn đối với việc giáo dục cho học sinh thái độ đúng đắn với công việc lao động và con người lao động.
Riêng đối với hình thức hướng nghiệp qua các môn học, điều tra trên giáo viên dạy Vật lí cũng cho thấy được tầm quan trọng của việc dạy học với tần suất thực hiện thực tế lại quá thấp.
Như vậy, có thể thấy rằng, học sinh phổ thông được tiếp cận chưa đầy đủ với tất cả các hình thức giáo dục hướng nghiệp, và tính hiệu quả của các hình thức này chưa thỏa mãn được nhu cầu, nguyện vọng cũng như chưa hấp dẫn được các em. Thực tế này phần nào giải thích khó khăn của học sinh trong việc lựa chọn nghề.
Trên cơ sở phân tích thực tiễn, chúng tôi đề xuất những giải pháp sau.
- Đổi mới nội dung dạy học theo hướng gắn với thực tiễn, gắn với nhu cầu của người học, khơi gợi hứng thú của học sinh.
- Kết hợp nội dung nghề nghiệp với dạy học vật lí.
- Tiến hành đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực đồng bộ với
đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá.
Do đó chúng tôi đưa ra giả thuyết khoa học: Nếu tổ chức dạy học tích hợp môn Vật lí, hướng nghiệp nghề cho học sinh trong dạy học Vật lí 10 phần Nhiệt học và Vật lý 12 phần Điện xoay chiều thì có thể giúp học sinh vận dụng kiến thức vật lí vào thực tiễn có thể định hướng nghề nghiệp đúng trong tương lai. 
2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Kiến thức Nhiệt học và Điện xoay chiều với nội dung nghề nghiệp.
Bảng 1. Mối liên quan giữa kiến thức phần Nhiệt học và phần Điệ

Tài liệu đính kèm:

  • docday_hoc_tich_hop_mon_vat_ly_huong_nghiep_nghe_cho_hoc_sinh_t.doc
  • docBìa SKKN . Lan.doc